Giao tiếp của cá nhân (Trang 29, giáo trình) Phản ánh tâm lý là một loại phản ánh đặc biệt vì: Là sự tác động của thế giới khách quan vào não người Tạo ra hình ảnh tâm lý mang tính sống động và sáng tạo Tạo ra một hình ảnh mang đậm màu sắc cá nhân Cả a, b và c (Trang 30, giáo trình) Tâm lý người mang bản chất xã hội và có tính lịch sử thể hiện ở Báo Khoa học và Phát triển, Cơ quan ngôn luận của Bộ Khoa học & Công nghệ, chuyên sâu về khoa học, công nghệ, chính sách, địa phương, sức khỏe, khám phá, khởi nghiệp, kinh doanh công nghệ, diễn đàn startup, doanh nghiệp công nghệ. Sự khác biệt về văn hoá và việc khó Hội thảo khoa học với chủ đề: "Đổi mới phương pháp giảng dạy và tư liệu dạy và học, định hướng nghiên cứu khoa học và đào tạo trong lĩnh vực công nghệ và quản lý môi trường thích ứng hội nhập và kỹ thuật số" "Chia sẻ kinh nghiệm biên soạn đề Các thí sinh đã trải qua 4 môn thi (Anh văn, Sinh vật, Vật lý, và Hóa học) với hai vòng thi trực tuyến. Vòng thi đầu tiên diễn ra vào 4 sáng chủ nhật liên tiếp, bắt đầu từ ngày 4-5-2008 và kết thúc ngày 25-5-2008. Tập nghiệm của phương trình 2sin2x+5sinx+2=0 là . Đăng ký Đăng nhập; Thư viện Lớp 1 Lớp 1; Toán; Tiếng Việt; Đạo Đức; Tự nhiên & Xã hội; Tiếng Anh; Lớp 2 Khoa học tự nhiên; Hoạt động trải nghiệm; Giáo dục thể chất; Lớp 8 1.Theo quan điểm của hầu hết các nhà nghiên cứu hiện nay, tiếng việt là ngôn ngữ thuộc nhóm nào ? A.Việt - Mường B.Môn - Khơmer C.Việt - Khơmer D.Mường - Khơmer A. 2. Quá trình phát triển của tiếng Việt gồm bao nhiêu giai đoạn ? A. 3 B. 5 C. 7 D. 9 C 3. Đâu là ví dụ về việc thay đổi trật tự từ thì thay đổi về thời trong tiếng Việt ? Combo Ôn Tập Luyện Thi Trắc Nghiệm Luyện Thi THPT Quốc Gia 2020 - Khoa Học Tự Nhiên (Vật Lí - Hóa Học - Sinh Học) Và Khoa Học Xã Hội (Khoa Học Xã Hội - Lịch Sử - Địa Lí - Giáo Dục Công Dân) (Bộ 2 Cuốn) Nhà xuất bản: NXB Đại Học Quốc Gia TP.HCM Tác giả: Nhiều Tác Giả Hình thức bìa: Bìa Mềm (0 đánh giá) 178.360 đ 192.000 đ -7% Chính sách đổi trả BVyW6OT. TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINHKHOA XÃ HỘI HỌC – CÔNG TÁC XÃ HỘI – ĐÔNG NAM ÁTÀI LIỆU HƯỚNG DẪN ÔN TẬP VÀ KIỂM TRAMÔN NHẬP MÔN KHOA HỌC GIAO TIẾPMục đíchTài liệu này nhằm hỗ trợ cho học viên hình thức giáo dục từ xa nắm vững nội dung ôn tậpvà làm bài kiểm tra hết môn hiệu liệu này cần được sử dụng cùng với tài liệu học tập của môn học và bài giảng củagiảng viên ôn tập tập trung theo chương trình đào dung hướng dẫnNội dung tài liệu này bao gồm các nội dung sauPhần 1 Các nội dung trọng tâm của môn học. Bao gồm các nội dung trọng tâmcủa môn học được xác định dựa trên mục tiêu học tập, nghĩa là các kiến thức hoặckỹ năng cốt lõi mà người học cần có được khi hoàn thành môn 2 Cách thức ôn tập. Mô tả cách thức để hệ thống hóa kiến thức và luyện tậpkỹ năng để đạt được những nội dung trọng 3 Hướng dẫn làm bài kiểm tra. Mô tả hình thức kiểm tra và đề thi, hướngdẫn cách làm bài và trình bày bài làm và lưu ý về những sai sót thường gặp, hoặcnhững nỗ lực có thể được đánh giá cao trong bài 4 Đề thi mẫu và đáp án. Cung cấp một đề thi mẫu và đáp án, có tính chấtminh hoạ nhằm giúp học viên hình dung yêu cầu kiểm tra và cách thức làm bài 1. CÁC NỘI DUNG TRỌNG TÂMChương 1 Những vấn đề chung về giao tiếpKhái niệm giao tiếpCác phân loại của giao tiếpChương 2 Giao tiếp và truyền thôngKhái niệm và mô hình truyền thôngCác quy luật tâm lý trong giao tiếpChương 3 Hành vi giao tiếp và hệ thống tác động đến hành vi giao tiếpKhái niệm hành vi giao tiếpCác yếu tố tác động đến hành vi giao tiếpChương 4 Nhận diện bản thânKhái niệmCác khuynh hướng của khái niệm bản thânCửa sổ JohariCơ chế phòng vệChương 5 Các phương tiện giao tiếpGiao tiếp có lờiGiao tiếp không lờiChương 6 Các kỹ năng trong giao tiếpKỹ năng giao tiêpKỹ năng lắng ngheChương 7 Nhóm và các phong cách lãnh đạo nhómKhái niệm nhóm, nhóm nhỏ, năng động nhóm, lãnh đạo, tiến trình lãnh đạoCác đặc điểm tâm lý của nhóm nhỏCác giai đoạn phát triển của nhómCác kiểu lãnh đạo-2-PHẦN 2. CÁCH THỨC ÔN TẬPChương 1 Những vấn đề chung về giao tiếpKhái niệm giao tiếpoCác nội dung cần chú ý+ Phát biểu được khái niệm giao tiếp+ Biết và phân tích được chức năng, mục đích, đặc điểm, vai trò của giao tiếpoĐọc TLHT trang 2, 3oTrả lời câu 1, 2 trang 20 trong cuốn Tài liệu hướng dẫn học tập Khoa họcgiao tiếp do Nguyễn Ngọc Lâm chủ biên 2006, Tài liệu lưu hành nội bộTrường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí phân loại của giao tiếpoNhận biết và phân loại được các phân loại của giao tiếpoĐọc TLHT trang 4 – 6oHọc viên tự liên hệ bản thân để nhận biết các phân loại giao tiếp này. Từ đóthực tập và hoàn thiện khả năng giao tiếp 2 Giao tiếp và truyền thôngKhái niệm và mô hình truyền thôngoCác nội dung cần chú ý”+ Phát biểu được khái niệm truyền thông giao tiếp+ Vẽ và giải thích được các thành tố tham gia vào trong quá trình truyềnthông mô hình truyền thông+ Biết cách hoàn thiện quá trình truyền thôngoĐọc TLHT trang 7 – 8oTrả lời câu 3, 4, 5, 6 trang 20 trong cuốn Tài liệu hướng dẫn học tập Khoahọc giao tiếp do Nguyễn Ngọc Lâm chủ biên 2006, Tài liệu lưu hành nộibộ Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí quy luật tâm lý trong giao tiếpoNhận biết và hiểu các quy luật tâm lý tác động đến quá trình giao tiếp của TLHT trang 9 – 11oHọc viên tự phân tích và liên hệ bản thân về các nội dung được đề cập đếntrong tiểu mục này để hoàn thiện kỹ năng giao tiếp của bản 3 Hành vi giao tiếp và hệ thống tác động đến hành vi giao tiếpKhái niệm hành vi giao tiếp-3-oCác nội dung cần chú ý+ Phát biểu và hiểu được khái niệm hành vi giao tiếp+ Hiểu động cơ thúc đẩy hành vi giao tiếp+ Hiểu và lấy ví dụ minh họa được mục đích của hành vi+ Vẽ và liên hệ thực tế mô hình tái lập sự cân bằng trong hành vi cá nhânoĐọc TLHT Trang 12oTrả lời câu 1, 2, 4, 5 trang 31 trong cuốn Tài liệu hướng dẫn học tập Khoahọc giao tiếp do Nguyễn Ngọc Lâm chủ biên 2006, Tài liệu lưu hành nộibộ Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí yếu tố tác động đến hành vi giao tiếpoTrình bày và giải thích được 3 yếu tố tác động đến hành vi giao tiếp yếu tốtâm lý, yếu tố văn hóa và yếu tố xã TLHT trang 12 – 16oTrả lời câu 3, 6trang 31 trong cuốn Tài liệu hướng dẫn học tập Khoa họcgiao tiếp do Nguyễn Ngọc Lâm chủ biên 2006, Tài liệu lưu hành nội bộtrường đại học Mở tp. Hồ Chí 4 Nhận diện bản thânKhái niệmoCác nội dung cần chú ý+ Hiểu và trình bày được khái niệm bản thân+ Nhận biệt các hình thức biểu hiện của khái niệm của bản thân+ Giải thích được quá trình hình thành khái niệm bản thânoĐọc TLHT trang 17oTrả lời câu 1, 2, 4, 8, 9 trang 58, 59 trong cuốn Tài liệu hướng dẫn học tậpKhoa học giao tiếp do Nguyễn Ngọc Lâm chủ biên 2006, Tài liệu lưuhành nội bộ Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí khuynh hướng của khái niệm bản thânoNhớ và phân biệt được các khuynh hướng của khái niệm bản thânoĐọc TLHT trang 17oTrả lời câu 3 trang 58 trong cuốn Tài liệu hướng dẫn học tập Khoa họcgiao tiếp do Nguyễn Ngọc Lâm chủ biên 2006, Tài liệu lưu hành nội bộTrường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí sổ JoharioPhân tích và liên hệ bản thân về khung cửa sổ JoharioĐọc TLHT 18 – 20-4-oTrả lời câu 6, 7 trang 58 trong cuốn Tài liệu hướng dẫn học tập Khoa họcgiao tiếp do Nguyễn Ngọc Lâm chủ biên 2006, Tài liệu lưu hành nội bộTrường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí chế phòng vệo Nhận biết và hiểu các cơ chế phòng vệ của bản thâno Đọc TLHT trang 21 – 23o Trả lời câu 5 trang 58 trong cuốn Tài liệu hướng dẫn học tập Khoa học giaotiếp do Nguyễn Ngọc Lâm chủ biên 2006, Tài liệu lưu hành nội bộ TrườngĐại học Mở Thành phố Hồ Chí 5 Các phương tiện giao tiếpNgôn ngữ có lờio Nhận biết và áp dụng được các biều hiện của ngôn ngữ có lời ngôn ngữ nóivà ngôn ngữ viếto Đọc TLHT trang 24 - 29o Trả lời câu 1, 2, 3, 4 trang 81 trong cuốn Tài liệu hướng dẫn học tập Khoahọc giao tiếp do Nguyễn Ngọc Lâm chủ biên 2006, Tài liệu lưu hành nộibộ Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí ngữ không lờio Nhận biết và áp dụng được các biểu hiện của ngôn ngữ không lời ngôn ngữhình thể, gioa tiếp bằng mắt, giọng nói, sử dụng không gian, môi trường, sựim lặng, thời gian, đụng Trả lời câu 1, 2, 3, 4 trang 73 trong cuốn Tài liệu hướng dẫn học tập Khoahọc giao tiếp do Nguyễn Ngọc Lâm chủ biên 2006, Tài liệu lưu hành nộibộ Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí 6 Các kỹ năng trong giao tiếpKỹ năng giao tiêpo Trình bày và phân tích được 3 kỹ năng cơ bản về mặt lý luận trong quá trìnhgiao tiếp kỹ năng định hướng, kỹ năng định vị và kỹ năng điều Đọc TLHT trang 30o Trả lời câu 5, 6 trang 93 trong cuốn Tài liệu hướng dẫn học tập Khoa họcgiao tiếp do Nguyễn Ngọc Lâm chủ biên 2006, Tài liệu lưu hành nội bộTrường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí năng lắng ngheo Các nội dung cần chú ý+ Hiểu và trình bày được khái niệm kỹ năng lắng nghe+ Nhận biết được lợi ích của việc lắng nghe-5-+ Hiểu và lấy ví dụ minh họa cho nội dung những cảm trở của việc lắngnghe có hiệu quảo Đọc TLHT trang 30 – 34o Trả lời câu 1, 2, 3, 4 trang 92 trong cuốn Tài liệu hướng dẫn học tập Khoahọc giao tiếp do Nguyễn Ngọc Lâm chủ biên 2006, Tài liệu lưu hành nộibộ Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí 7 Nhóm và các phong cách lãnh đạo nhómKhái niệm nhóm, nhóm nhỏ, năng động nhóm, lãnh đạo, tiến trình lãnh đạoo Các nội dung cần chú ý+ Trình bày và lấy ví dụ minh họa cho các khái niệm về nhóm, nhóm nhỏ,năng động nhóm, lãnh đạo và tiến trình lãnh đạo+ Nêu lên tầm quan trọng của cá nhân trong cuộc sống+ Giải thích được lý do tại sao nhóm nhỏ giúp cá nhân thay đổi hành vio Đọc TLHT trang 35 – 36, 40o Trả lời câu 1, 2, 3, 9, 10 trang 113 trong cuốn Tài liệu hướng dẫn học tậpKhoa học giao tiếp do Nguyễn Ngọc Lâm chủ biên 2006, Tài liệu lưu hànhnội bộ Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí đặc điểm tâm lý của nhóm nhỏo Trình bày được các đặc điểm tâm lý của nhóm nhỏo Đọc TLHT trang 36o Trả lời câu 4 trang 113 trong cuốn Tài liệu hướng dẫn học tập Khoa họcgiao tiếp do Nguyễn Ngọc Lâm chủ biên 2006, Tài liệu lưu hành nội bộTrường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí giai đoạn phát triển của nhómo Nhận biết và liên hệ thưc tiễn cho các giai đoạn phát triển nhómo Đọc TLHT trang 39o Trả lời câu 5, 6, 7, 8 trang 113 trong cuốn Tài liệu hướng dẫn học tập Khoahọc giao tiếp do Nguyễn Ngọc Lâm chủ biên 2006, Tài liệu lưu hành nộibộ Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí kiểu lãnh đạoo Các nội dung cần chú ý+ Nhận biết và phân tích được các kiểu lãnh đạo độc đoán, dân chủ, tự do+ Liên kết được mối quaan hệ giữa 3 yếu tố vấn đề, nhân viên và lãnh Đọc TLHT trang 40, 41o Trả lời câu 1, 2, 3, 4 trang 130 trong cuốn Tài liệu hướng dẫn học tập Khoahọc giao tiếp do Nguyễn Ngọc Lâm chủ biên 2006, Tài liệu lưu hành nộibộ Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí 3. HƯỚNG DẪN LÀM BÀI KIỂM TRA Hình thức kiểm tra thi tự trúc đề thi có 2 câu, mỗi câu 5điểm trong một số trường hợp có thể là 4- 6 Hướng dẫn cách làm bài- Đọc thật kỹ TLHT và có thể liên hệ với giảng viên phụ trách giảng dạy thông quađịa chỉ email được cung cấp để tìm hiểu về các nội dung trong chương trình học nếu chưahiểu trước ngày thi để có thể làm bài đạt kết quả cao Đọc thật kỹ đề thi, tìm ra yêu cầu chính của đề thi là gì và tập trung vào nội dungchính, không rườm rà, nói dong dài quá xa chủ đề được đề cập. Làm thừa so với yêu cầusẽ không được tính điểm và rất mất thời dễ làm trước, câu khó làm Trong đề thi, có những câu hỏi không yêu cầu trình bày hoặc phát biểu định nghĩa,tuy nhiên, nên lưu ý bắt buộc phải nêu định nghĩa trước trước khi làm các bước theo yêucầu của đề Không chép toàn bộ những nội dung đã có trong sách hoặc slide bài giảng củagiảng viên mà cần đưa thêm ý kiến cá nhân vô trong bài Lưu ý nên đưa các ví dụ thực tiễn vào để phân tích và làm sáng tỏ nội dung đang đềcập bài của người khác sẽ không được tính 4. ĐỀ THI MẪU VÀ ĐÁP ÁNĐỀ THIMÔN NHẬP MÔN KHOA HỌC GIAO TIẾP - HK…./NH….LỚP- HỆThời gian làm bài 90 PHÚTSV Được sử dụng tài 1 5 điểm Trình bày và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tronggiao tiếp?Câu 2 5 điểm Theo anh, chị-Có bao nhiêu phong cách lãnh đạo?-Phân tích và lấy các ví dụ trong thực tế để chứng minh cho các phong cách lãnhđạo trên?-Và phong cách lãnh đạo nào được xem là hiệu quả nhất? Vì sao?- HẾT -ĐÁP ÁNCâu 1 5 điểm Trình bày và phân tích đầy đủ các nội dung sau-Di truyền. Lấy 1 ví dụ minh họa = khỏe. Lấy 1 ví dụ minh họa = nghĩ. Lấy 1 ví dụ minh họa = xúc. Lấy 1 ví dụ minh họa = cầu. Lấy 1 ví dụ minh họa = niệm bản thân. Lấy 1 ví dụ minh họa = ước. Lấy 1 ví dụ minh họa = trường. Lấy 1 ví dụ minh họa = quan hệ. Lấy 1 ví title="Đề ôn tập môn Sinh học 12"> Đề ôn tập môn Sinh học 12 32 895 13 TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH KHOA SƯ PHẠM TIỂU HỌC MẦM NON GIÁO TRÌNH Lưu hành nội bộ NHẬP MÔN KHOA HỌC GIAO TIẾP Dùng cho sinh viên ngành ĐH GD Tiểu học Tác giả HOÀNG THỊ TƯỜNG VI Năm 2016 1 MỤC LỤC Trang CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KHOA HỌC GIAO TIẾP ..................................3 ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA KHOA HỌC GIAO TIẾP .......................................................................................................................................4 GIAO TIẾP - KHÁI NIỆM VÀ CÁC HƯỚNG TIẾP CẬN..............................................5 CHỨC NĂNG VÀ VAI TRÒ GIAO TIẾP .......................................................................7 PHÂN LOẠI GIAO TIẾP ................................................................................................9 HÀNH VI GIAO TIẾP ...................................................................................................11 CHƯƠNG 2 BẢN CHẤT XÃ HỘI CỦA GIAO TIẾP .............................................................19 GIAO TIẾP NHƯ MỘT QUÁ TRÌNH TRAO ĐỔI THÔNG TIN ..................................19 NHẬN THỨC TRONG GIAO TIẾP ..............................................................................20 CHƯƠNG 3 NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC GIAO TIẾP ........................................................26 NỘI DUNG GIAO TIẾP ................................................................................................26 HÌNH THỨC GIAO TIẾP..............................................................................................27 KHOẢNG CÁCH TRONG GIAO TIẾP.........................................................................34 CHIỀU TRUYỀN THÔNG ............................................................................................36 CHƯƠNG 4 CÁC KỸ NĂNG GIAO TIẾP.............................................................................38 CÁC YẾU TỐ CƠ BẢN KHI TIẾN HÀNH GIAO TIẾP ...............................................38 TỰ NHẬN THỨC VỀ BẢN THÂN VÀ SỰ CỞI MỞ TRONG GIAO TIẾP..................39 CÁC NGUYÊN TẮC TRONG GIAO TIẾP ...................................................................43 CÁC KỸ NĂNG GIAO TIẾP.........................................................................................45 CHƯƠNG 5 ĐẶC ĐIỂM GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI VIỆT....................................................38 ĐẶC ĐIỂM VỀ THÁI ĐỘ GIAO TIẾP .........................................................................52 ĐẶC ĐIỂM VỀ QUAN HỆ GIAO TIẾP ........................................................................54 ĐẶC ĐIỂM VỀ CÁCH THỨC, NGHI THỨC GIAO TIẾP............................................54 TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................................57 LỜI NÓI ĐẦU 2 Nhằm phục vụ cho công tác giảng dạy và học tập tại Trường Đại học Quảng Bình, chúng tôi biên soạn Bài giảng Nhập môn khoa học giao tiếp cho đối tượng là sinh viên Đại học Giáo dục Tiểu học hệ chính quy. Trong quá trình biên soạn sẽ không tránh khỏi sai sót, rất mong quý đọc giả và sinh viên góp ý để giáo trình ngày càng hoàn thiện. Tác giả CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KHOA HỌC GIAO TIẾP 3 ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA KHOA HỌC GIAO TIẾP Đối tượng nghiên cứu của khoa học giao tiếp Khoa học giao tiếp nghiên cứu những vấn đề cơ bản sau đây - Bản chất, đặc điểm của quá trình giao tiếp - Nội dung và hình thức giao tiếp - Các hiện tượng tâm lý và tâm lý xã hội diễn ra trong giao tiếp, trong đó chủ yếu là các qúa trình trao đổi thông tin, nhận thức, cảm xúc và ảnh hưởng tác động qua lại lẫn nhau giữa các chủ thể giao tiếp. Trên cơ sở làm rõ những vấn đề này, môn học khoa học giao tiếp giúp chúng ta nâng cao văn hoá giao tiếp, ứng xử của bản thân và là tiền đề cho sự thành đạt của chúng ta trong cuộc sống cũng như trong sự nghiệp. Nhiệm vụ của khoa học giao tiếp Nghiên cứu những vấn đề cơ bản nhất về giao tiếp và ứng xử theo truyền thống dân tộc và thông lệ quốc tế, phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay. Cụ thể - Nghiên cứu đặc điểm, bản chất xã hội của giao tiếp - Nghiên cứu những khía cạnh của quá trình giao tiếp truyền thông, nhận thức và ảnh hưởng tác động qua lại trong giao tiếp. - Rút ra được các cách tạo ra ấn tượng ban đầu trong quá trình giao tiếp. - Từ đó cung cấp những kết quả nghiên cứu để hoàn thiện các hoạt động giao tiếp. Các phương pháp nghiên cứu a. Các nguyên tắc của phương pháp nghiên cứu - Đảm bảo tính khách quan Nghiên cứu sự vật, hiện tượng theo đúng bản chất của chúng, không suy diễn, phán đoán, áp đặt theo ý muốn chủ quan. Tuy nhiên không loại trừ ý kiến, kết luận của các nhà chuyên môn trên cơ sở vốn tri thức, hiểu biết và kinh nghiệm của họ. - Nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ với các sự vật, hiện tượng khác Nghiên cứu sự vật, hiện tượng này với sự vật hiện tượng khác trong mối quan hệ nhân quả, tác động lẫn nhau. - Nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong sự vận động và phát triển Các sự vật, hiện tượng luôn vận động, phát triển, biến đổi không ngừng. Do vậy chúng ta cần nghiên cứu sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng - Nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong một chỉnh thể toàn vẹn Mỗi sự vật, hiện tượng đều có một cấu trúc nhất định, được cấu tạo bởi các yếu tố cấu thành. Vì vậy, khi nghiên cứu chúng cần đặt chúng vào trong một chỉnh thể toàn vẹn b. Các phương pháp nghiên cứu * Phương pháp quan sát Quan sát là phương pháp thu nhận thông tin về đối tượng bằng cách tri giác trực tiếp đối tượng để thu thập tài liệu dữ kiện cần nghiên cứu. + Những yêu cầu khi tiến hành phương pháp này 4 - Xác định rõ mục đích, nhiệm vụ quan sát - Phải trạng bị lý luận trước khi quan sát - Tiến hành trong điều kiện thuận lợi - Tiến hành quan sát, thu thập thông tin, ghi chép, xử lý thông tin để rút ra kết luận - Kiểm tra kết quả bằng các phương pháp khác * Phương pháp phân tích tài liệu Phương pháp phân tích tài liệu được ứng dụng trong nghiên cứu giao tiếp giữa người và người, đặc biệt là nghiên cứu nội dung thông tin của tài liệu như nghiên cứu khía cạnh thông tin giữa các chủ thể giao tiếp, các nét tính cách của người truyền tin, người nhận tin... * Phương pháp trắc nghiệm Trắc nghiệm là một pháp thử để đo lường tâm lý đã được chuẩn hoá trên một số lượng người. Đây là phương pháp dùng để đo lường các mối quan hệ giữa các cá nhân trong nhóm, mối quan hệ liên nhân cách, mối quan hệ cảm xúc, mối quan hệ tập thể. * Phương pháp thực nghiệm Phương pháp thực nghiệm là phương thu nhận thông tin về sự thay đổi số lượng cũng như chất lượng của đối tượng nghiên cứu trên cơ sở nhà khoa học tác động những tác nhân trong điều kiện có sự khống chế * Phương pháp đàm thoại Đó là cách đặt ra câu hỏi cho đối tượng và dựa vào câu trả lời của họ để thu thập thông tin về vấn đề cần nghiên cứu. * Các yêu cầu khi tiến hành phương pháp này - Xác định rõ mục đích, yêu cầu - Tìm hiểu trước thông tin về đối tượng - Trong quá trình đàm thoại, nhà nghiên cứu cần định hướng đúng thông tin cần trao đổi. * Phương pháp điều tra bằng Anket Điều tra bằng Anket là phương pháp nhà nghiên cứu sử dụng một hệ thống câu hỏi đặt ra đối với một số đối tượng nhằm thu thập ý kiến chủ quan của họ về một vấn đề nào đó. - Có 2 loại Ankét Ankét đóng và Ankét mở - Những yêu cầu khi tiến hành phương pháp này + Số lượng câu hỏi điều tra phải nhiều + Giữa các câu hỏi phải có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. + Kết quả điều tra phải được xử lý nghiêm túc GIAO TIẾP - KHÁI NIỆM VÀ CÁC HƯỚNG TIẾP CẬN Khái niệm giao tiếp Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lys giữa người và người, thông qua đó con người trao đổi với nhau về mặt thông tin, tri giác,cảm xúc, tác động, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. 5 Những đặc trưng cơ bản của giao tiếp - Tính xã hội của giao tiếp Giao tiếp là một hiện tượng xã hội, một hiện tượng đặc thù của con người, chỉ riêng con người mới có giao tiếp thực sự và được thể hiện chỉ trong xã hội loài người. Trong thế giới động vật không có giao tiếp, không có các quan hệ mang tính chuẩn mực mà chỉ có liên hệ mang tính bầy đàn nhằm thực hiện những nhu cầu mang tính sinh học. Giao tiếp là hoạt động xác lập và vận hành các quan hệ người - người để hiện thực hóa các quan hệ xã hội giữa các cá nhân với nhau và giao tiếp là điều kiện để tiến hành các hoạt động chung của các cá nhân. Qua giao tiếp sự trao đổi tiếp xúc người - người làm nảy sinh hình thành các chuẩn mực giá trị xã hội và đáp ứng mục đích - nhu cầu cá nhân và nhóm của xã hội nói chung. - Tính lịch sử của giao tiếp Giao tiếp giữa các cá nhân bao giờ cũng mang tính chất lịch sử phát triển xã hội loài người, bởi lẽ giao tiếp có nội dung cụ thể được diễn ra trong một không gian, thời gian với các đối tượng cụ thể, một hoàn cảnh xã hội nhất định. Mỗi giai đoạn lịch sử đều mang dấu ấn của một dạng giao tiếp điển hình. Các phương tiện sử dụng giao tiếp giữa các cá nhân chịu sự chi phối của sự phát triển xã hội đồng thời giao tiếp mang tính chủ thể. - Tính chủ thể của giao tiếp Giao tiếp bao giờ cũng được thực hiện bởi những cá nhân cụ thể. Dù ở loại hình giao tiếp nào, nội dung giao tiếp gì cũng đều do những cá nhân thực hiện. Sự khác biệt của hoạt động giao tiếp với hoạt động khác ở chỗ trong hoạt động giao tiếp cá nhân vừa là chủ thể vừa là khách thể. Các cá nhân tham gia vào quá trình giao tiếp luôn luôn đổi chỗ vai trò chủ thể cho nhau và chi phối tác động lẫn nhau. Mức độ tác động phụ thuộc vào vị trí, vai trò xã hội cũng như một số đặc điểm tâm lý xã hội của mỗi cá nhân. - Tính nhận thức và tự nhận thức của giao tiếp Giao tiếp dù mang mục đích gì đi chăng nữa cũng đều diễn ra sự trao đổi thông tin, tư tưởng, tình cảm, thế giới quan và nhân sinh quan, nhu cầu nguyện vọng của người tham gia vào quá trình giao tiếp, chính thông qua sự trao đổi, chia sẻ thông tin mà con người tăng cường vốn kiến thức của mình, nhận thức về thế giới quan và về người khác, học hỏi kinh nghiệm từ người khác. Nhờ có đặc trưng này mà phẩm chất tâm lý, hành vi ứng xử của con người được nảy sinh và phát triển, cũng nhờ giao tiếp mà quá trình xã hội hóa của mỗi cá nhân được diễn ra. Cũng thông qua tiếp xúc với những người khác mà cá nhân nhận thức về mình một cách sâu sắc hơn. Những thông tin phản hồi từ người cùng giao tiếp, những hành vi ứng xử của họ trở thành tấm gương phản chiếu để cá nhân "soi" mình trong đó và nhận thức được về bản thân mình, từ đó xây dựng được bức tranh về chính bản thân mình khái niệm bản thân cùng với sự tồn tại của cá nhân khác trong nhóm, nhận thức được những mặt mạnh, mặt yếu, cũng như điều kiện và hoàn cảnh của mình. - Tính truyền cảm lây lan của giao tiếp Khi giao tiếp có sự lan truyền cảm xúc, tâm trạng đặc biệt với sự tham gia của các kênh giao tiếp phi ngôn ngữ như nét mặt, tư thế, giọng nói … Sự truyền cảm được thể 6 hiện rõ nét trong đồng cảm, ám thị. Chính điều này làm tăng tính sinh động, tính cảm xúc của quan hệ liên nhân cách. CHỨC NĂNG VÀ VAI TRÒ GIAO TIẾP Chức năng của giao tiếp Các chức năng cơ bản của giao tiếp được nhiều tài liệu đề cập tới, nhất là chức năng thông báo, chức năng phản ánh nhận thức và chức năng điều khiển, điều chỉnh hành vi, ngoài ra còn có tài liệu đề cập tới chức năng định hướng hoạt động. - Chức năng thông báo thông tin Trong giao tiếp các cá nhân thông báo cho nhau những thông tin. Nội dung thông báo có thể là những hiện tượng trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, những vấn đề thời sự, những tri thức mới trong lĩnh vực khoa học. Nội dung thông tin có thể là suy nghĩ, tâm trạng, cảm xúc, thái độ. Trong quá trình giao tiếp người ta thông báo, biểu lộ cho người kia những suy nghĩ, ý tưởng của mình, nội dung thông tin vấn đề gì đó, biểu lộ thái độ của mình về vấn đề này như thế nào và đồng thời lại thu nhận được, biết được thái độ quan điểm, phản ứng của người đối thoại về vấn đề nào đó, sự việc nào đó. Sự thông báo, truyền thông tin bằng các phương tiện ngôn ngữ, phi ngôn ngữ cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, tư thế…. - Chức năng nhận thức Giao tiếp giúp con người nhận thức sự vật, sự việc, nhận thức về thế giới xung quanh, về người khác, về chính bản thân mình thông qua quá trình tiếp nhận thông tin, xử lý thông tin. Giao tiếp giúp con người mở rộng tầm hiểu biết, nâng cao các kiến thức kỹ năng của mình trong mọi lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội. Khả năng nhận thức trong giao tiếp phụ thuộc vào khả năng huy động các cơ quan cảm giác để phản ánh miệng nói, tai nghe, óc phán đoán, suy nghĩ khái quát hóa, trừu tượng hóa các thông tin đã thu nhận được và đặc biệt phụ thuộc vào trình độ, kinh nghiệm đời sống thực tiễn của cá nhân đó. - Chức năng điều khiển, điều chỉnh hành vi Khi nhận thức được mục đích, nội dung và đối tượng giao tiếp cá nhân quyết định sử dụng cách thức nào, phương tiện giao tiếp nào để phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp, đối tượng giao tiếp. Mục tiêu của giao tiếp là làm thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi của con người. Do vậy, có thể nói giao tiếp là quá trình điều khiển. Trước hết giao tiếp điều khiển chính bản thân chủ thể giao tiếp. Khi giao tiếp với người khác, cá nhân chủ thể phải lựa chọn điều chỉnh hành vi cử chỉ, điệu bộ… của mình sao cho phù hợp với đối tượng giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp, môi trường giao tiếp. Mặt khác, khi giao tiếp cá nhân phải ứng xử thế nào để làm cho đối tượng cùng nhận thức được, cùng cảm nhận được, hiểu được mình hiểu được nhu cầu, nguyện vọng, suy nghĩ của mình. Đó chính là điều khiển sự nhận thức, thái độ và hành vi của đối tượng theo mục đích của cá nhân mình. Trong quá trình giao tiếp các cá nhân nhận được những phản hồi từ người khác và từ đó điều chỉnh hành vi ứng xử của mình cho phù hợp với tình huống. Việc điều chỉnh 7 hành vi giúp các cá nhân thích nghi lẫn nhau, thích nghi hoàn cảnh, giúp cá nhân tự hoàn thiện phẩm chất và nhân cách của mình. Các chuẩn mực xã hội, các nguyên tắc nhóm thường được thể hiện trong giao tiếp nhóm, bởi vậy mỗi cá nhân thường được học hỏi hành vi và xã hội hóa chính bản thân mình. Một nhà tâm lý học Xô Viết đã phân chức năng của giao tiếp thành các chức năng cụ thể sau - Chức năng tiếp xúc Giao tiếp là nền tảng đặt quan hệ giữa người với người và giao tiếp tạo tâm thế sẵn sàng tiếp nhận thông tin và trao đổi thông tin. - Chức năng thông báo Đó chính là quá trình trao đổi thông tin, tình cảm, suy nghĩ, cảm xúc…giữa các chủ thể giao tiếp. - Chức năng thúc đẩy tính tích cực của các chủ thể cùng giao tiếp Trong quá trình giao tiếp các cá nhân không chỉ có trao đổi thông tin một cách thụ động mà giao tiếp còn thúc đẩy các cá nhân tích cực, chủ động trao đổi thông tin. - Chức năng phối hợp công tác Quá trình giao tiếp giúp các cá nhân định hướng, tìm hiểu lẩn nhau và đi đến sự nhất trí, cộng tác trong các hoạt động. Chức năng giúp các cá nhân nhận thức và hiểu biết lẫn nhau. - Chức năng biểu cảm Biểu lộ và trao đổi cảm xúc cho nhau trong quá trình giao tiếp. - Chức năng gây tác động đến tri thức, tình cảm và toàn bộ nhân cách ảnh hưởng lẫn nhau làm thay đổi đến hành vi, tâm trạng và thái độ của nhau, cũng như các xu hướng nhân cách. Vai trò của giao tiếp a. Vai trò của giao tiếp trong đời sống con người và xã hội Giao tiếp là một nhu cầu không thể thiếu được của con người, đó là nhu cầu muốn được tiếp xúc với người khác. Một nhu cầu mang tính người sâu đậm. Nhu cầu này là nhu cầu xuất hiện đầu tiên ở con người vì khi mới lọt lòng mẹ đứa trẻ có phản xạ rúc đầu vào bụng, vào ngực mẹ một mặt là muốn tìm vú mẹ nhưng mặt khác là muốn áp vào da thịt để được ôm ấp, vỗ về. Có thể nói mối quan hệ với người mẹ qua xúc giác là quan trọng bậc nhất của con người. Hiện tượng đó được gọi là sự gắn bó mẹ - con. Nếu vì một lý do nào đó con người không được thõa mãn nhu cầu này, thiếu đi mối quan hệ mối quan hệ thiêng liêng gắn bó thì sẽ gây nên ở con người dù bất kỳ lứa tuổi nào những trãi nghiệm tiêu cực, những lo âu chờ đợi cái gì đó không hay xảy ra mặc dù không có cái gì đe dọa họ cả nghĩa là đứa bé sẽ phát triển không bình thường, ngay cả khi sống đứa trẻ sẽ gặp nhiều khó khăn, làm tổn thương tâm lý đứa trẻ sau này. ở nước ta, một số bệnh viện phụ sản chủ trương thay vì nuôi trẻ đẻ thiếu tháng trong lồng kính bằng việc cho mẹ ấp ủ trong lòng. Kết quả là tỷ lệ sống và phát triển ở trẻ rất cao. Chúng ta có thể kết luận rằng vắng mẹ từ những ngày đầu mới ra đời là nỗi bất hạnh to lớn đối với trẻ em. Trong trường hợp bé bị tách ra khỏi mẹ sớm do bị chết, do bị ốm cần phải cách li hay do một lý 8 do nào khác, thì điều cần thiết là phải giúp cho trẻ tạo ra được mối quan hệ gắn bó mẹ con. Nhu cầu gắn bó lúc này cũng có thể được thõa mãn bởi người khác, miễn là người đó có lòng yêu thương, miễn là người đó có lòng yêu thương, sẵn sàng ôm ấp vỗ về như chính người mẹ của bé. Giao tiếp tạo ra cơ sở cho sự tồn tại của con người, giúp con người nhận thức và phát triển. Con người học làm người thông qua giao tiếp, nói cách khác giao tiếp là phương tiện để con người xã hội hóa thông qua giao lưu lao động và học tập. Giao tiếp là điều kiện tất yếu của sự hình thành và phát triển tâm lý con người, nó là cơ sở để phân biệt giữa thế giới động vật và xã hội loài người, giao tiếp có mặt trong mọi hoạt động của con người và qua đó con người phát triển động cơ, mục đích, nguyện vọng, tình cảm. Nền tảng cho sự tồn tại và phát triển của xã hội là giao tiếp bởi vì xã hội không phải là con số cộng của các cá thể mà là mối quan hệ và sự tương tác của các thành viên trong xã hội thông qua hoạt động lao động và hoạt động giao tiếp. Không có sự giao lưu hợp tác giữa các cá nhân, các tổ chức, các quốc gia, xã hội loài người sẽ không phát triển. Chính giao tiếp giúp con người truyền đạt những kinh nghiệm, tri thức lịch sử xã hội từ người này sang người khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ quốc gia này sang quốc gia khác. Như vậy giao tiếp là để hợp tác và phát triển. b. Vai trò của giao tiếp trong công tác dạy học ở trường Tiểu học Yêu cầu sinh viên trao đổi và liên hệ thực tế hoạt động giao tiếp ở trường Tiểu học PHÂN LOẠI GIAO TIẾP Có nhiều cách phân loại giao tiếp dựa vào các tiêu chí khác nhau. Căn cứ vào tính chất tiếp xúc - Giao tiếp trực tiếp Giao tiếp trực tiếp là sự tiếp xúc, trao đổi trực tiếp giữa các chủ thể giao tiếp. Trong loại hình giao tiếp này các cá nhân tham gia vào quá trình giao tiếp một cách trực tiếp, đối thoại trực tiếp với nhau, mặt đối mặt, xảy ra trong cùng một khoảng thời gian và không gian nhất định, có sự tham gia của ngôn ngữ nói, viết, ngôn ngữ biểu cảm ngôn ngữ cơ thể ánh mắt, nét mặt, cử chỉ….loại giao tiếp này có tác dụng lớn với sự điều chỉnh hành vi, cử chỉ… của các chủ thể giao tiếp. - Các hình thức của giao tiếp trực tiếp bao gồm đối thoại và độc thoại. + Đối thoại là khi các cá nhân trò chuyện, phỏng vấn, bàn luận trao đổi trực tiếp với nhau. Trong hình thức giao tiếp này có sự thay đổi mối quan hệ chủ thể - khách thể, thay đổi vị trí của các cá nhân giao tiếp. + Độc thoại là khi chỉ có một người nói mà không có sự đáp lại của những người khác trong trường hợp diễn thuyết, giảng bài. - Giao tiếp gián tiếp Giao tiếp gián tiếp là giao tiếp thực hiện thông qua các phương tiện trung gian như ti vi, điện thoại, fax, … 9 Trong giao tiếp gián tiếp các cá nhân giao tiếp phụ thuộc vào phương tiện giao tiếp. Do không có hay ít có sự tham gia của kênh thông tin phi ngôn ngữ nên giao tiếp gián tiếp ít sinh động hơn so với giao tiếp trực tiếp. Căn cứ vào mục đích của giao tiếp - Giao tiếp chính thức Là hình thức giao tiếp diễn ra chính thức theo một lễ nghi nhất định nhằm giải quyết một vấn đề cụ thể, cá nhân tham gia vào quá trình giao tiếp thường đại diện cho nhóm hoặc giữa các nhóm mang tính hình thức. Loại giao tiếp này thường có quy định nhất định về trang phục, địa điểm, nội dung - Giao tiếp không chính thức Là giao tiếp không mang tính hình thức, không chính thức do vậy không có quy định về lễ nghi, không yêu cầu cao về trang phục, địa điểm và cá nhân không đại diện cho ai, nhóm người nào. Hình thức giao tiếp này thường nhằm thỏa mãn nhu cầu tiếp xúc, giải trí của các cá nhân. Bầu không khí trong khi giao tiếp thường mang tính chất thân thiện, gần gũi có hiểu biết lẫn nhau. Căn cứ vào đối tượng tham gia quá trình giao tiếp - Giao tiếp song đôi Giao tiếp song đôi là giao tiếp trong đó chủ thể và đối tượng giao tiếp là hai cá nhân tiếp xúc với nhau. Loại giao tiếp này thể hiện rõ nhất trong giao tiếp thuộc quan hệ gia đình, vợ chồng, con cái, trong quan hệ bạn bè hay tình yêu đôi lứa Đây là hình thức giao tiếp giữa hai cá nhân, thường mang tính chất công việc diễn ra hàng ngày, nghi thức giao tiếp thường gần gũi, thân thiện. Loại giao tiếp này thường xuất hiện sớm ngay từ khi một đứa trẻ mới ra đời, là hình thức giao tiếp cơ bản của con người trong đời sống hàng ngày. Giao tiếp song đôi diễn ra nhanh gọn, dễ dàng, tiện lợi về hoàn cảnh, điạ điểm…. Hiệu quả của hình thức giao tiếp này thường cao do có sự tham gia của nhiều kênh thông tin và đặc biệt là sự phản hồi tức thời. - Giao tiếp nhóm Là giao tiếp giữa cá nhân với nhóm hoặc giữa các thành viên trong nhóm và ngoài nhóm với nhau các nhóm xã hội bao giờ cũng là tập hợp của những cá nhân có hoàn cảnh, mục đích, đề tài giao tiếp chung, do đó mức độ khăng khít phụ thuộc vào hoàn cảnh, cách thức và khuôn mẫu chuẩn mực nhóm…. Đây là hình thức giao tiếp giữa các cá nhân trong nhóm, giữa các nhóm với nhau nên nó liên quan đến nhiều người, thường có yêu cầu nhất định về thời gian, địa điểm, khung cảnh, nguyên tắc nhất định. Hạt nhân của giao tiếp nhóm là sự liên kết để tìm tiếng nói chung giữa các thành viên trong nhóm. Giao tiếp xã hội rộng lớn mang tính quốc gia, quốc tế giao tiếp giữa các quốc gia, các tổ chức quốc tế Hội đồng Liên hợp quốc, Hội khoa học kỹ thuật cũng là một dạng của giao tiếp nhóm nhưng là giao tiếp nhóm lớn. Loại giao tiếp này thường đòi hỏi phải có trình độ ngoại ngữ, văn hóa, chuyên môn khoa học. Giao tiếp này đang có xu hướng phát triển nhanh hiện nay. 10 Giao tiếp nghề nghiệp Là loại giao tiếp mang tính đặc trưng của một nghề nhất định giao tiếp kinh doanh, giao tiếp sư phạm, giao tiếp báo chí…. Đặc điểm của loại giao tiếp nghề nghiệp được quy định bởi tính chất nghề nhất định. Nghề nghiệp ảnh hưởng tới tính cách, hành vi, cách ứng xử tư thế, trang phục của cá nhân. Nội dung thông tin cũng như cách sử dụng ngôn từ trong quá trình giao tiếp cũng chịu sự tác động của đặc trưng nghề nghiệp nhất định. Nghề nghiệp quy định lượng kiến thức trong lĩnh vực cụ thể, mặt khác nó cũng quy định tâm thế trong giao tiếp. HÀNH VI GIAO TIẾP Khái niệm Hành vi là sự cụ thể ra bên ngoài của hệ thống thái độ. Hệ thống hành vi rất đa dạng, phong phú chịu sự chi phối bởi hệ thống thái độ. Thái độ là mặt nội dung chủ đạo còn hành vi là hình thức biểu hiện. Thuật ngữ này dùng để nhấn mạnh mặt định hướng, mục tiêu bởi theo các nhà nghiên cứu Mọi ứng xử đều là giao tiếp. Có nhiều dạng ứng xử khác nhau lời lẽ, cử chỉ, hành động. Do vậy, hành vi giao tiếp là hành động, cách ứng xử của con người trong giao tiếp Mô hình hành vi giao tiếp Giao tiếp là một đặc thù của con người và cũng là hiện thực tiêu biểu của hành ứng xử của con người. Có nhiều cách lý giải theo hành vi của con người. a. Thuyết hành vi Thuyết hành vi do nhà Tâm lý học người Mỹ Watson 1878 - 1985 sáng lập chuyên nghiên cứu hành vi biểu hiện của con người. Ông cho rằng Mọi ứng xử của cá nhân là quá trình tiếp nhận kích thích ngoại giới và phản ứng đáp lại kích thích của cơ thể con người. Ông lý giải Hành vi là tổng thể phản ứng của cơ thể nhằm đáp ứng lại kích thích ngoại giới. Hành vi ấy chính là con vật. Toàn bộ hành vi của con người được giới hạn bởi công thứcS R trong đó S là kích thích, R là phản ứng Quan điểm của Watson là quan điểm sai lầm vì không biết được "con người là chủ thể tích cực", mà ông chỉ biết rằng "con người là cá thể, thực thể sinh vật" Hành vi của con người hoàn toàn phụ thuộc vào kích thích, kích thích như thế nào thì phản ứng như thế ấy. Do đó vấn đề này cũng sai lầm và bế tắc bởi không nhất thiết bao giờ có kích thích A thì có phản ứng A vì có sự tham gia của ý thức. Skiner 1901 người kế tục và phát triển quan điểm của Watson thành hành vi tạo tác. Skiner cho rằng cần tính tới các yếu tố chủ quan như tư duy, ý thức của cá nhân trong mọi hành vi nhất định. Vì thế, theo ông không phải bất cứ tác nhân nào tới cá nhân đều tạo ra phản ứng và cùng một kiểu tác nhân kích thích có thể cho ta nhiều dạng đáp ứng trong những thời điểm khác nhau, hoàn cảnh khác nhau. Tuy nhiên ông vẫn nhấn mạnh tính quyết định của yếu tố kích thích ngoại giới đối với bản chất của hành vi ứng xử. 11 Nhìn chung, những người theo thuyết hành vi xem xét hành vi ứng xử của con người trong mối quan hệ qua lại giữa môi trường với con người. Tác nhân kích thích của môi trường quy định tính chất, đặc điểm hành vi ứng xử. Mọi hành vi ứng xử là một chuỗi những phản ứng trước những thay đổi của môi trường, điều kiện bên ngoài. b. Lý thuyết liên hệ xã hội Thuyết này cho rằng con người sống trong mối liên hệ với môi trường, với người khác. Các mối liên hệ này chính là bản chất xã hội cá nhân và giao tiếp được xem là phương tiện để thiết lập các mối quan hệ. Dựa trên nền của hoạt động giao tiếp các cá nhân thực hiện hoạt động thông qua các hành động, thao tác để đạt một mục đích nhằm thoã mãn nhu cầu nào đó. Có thể biễu diễn sơ đồ của hoạt động có đối tượng như sau Nhu cầu Hoạt động Hành động Mục đích Thao tác Phương tiện Song hoạt động giao tiếp phức tạp bởi nó nằm trong mối quan hệ với người khác, cùng một môi trường giao tiếp nhưng tồn tại nhiều chủ thể giao tiếp khác nhau với nhu cầu khác nhau, mục đích khác nhau và cách thực thực hiện để đi đến mục đích khác nhau. Nhu cầu S1 Hoạt động Nhu cầu S2 Mục đích S1 Hành động Hành động S2 Phương tiện S1 Thao tác Phương tiện S2 Bởi vậy để giao tiếp có hiệu quả để tạo ra sự tin cậy, sự hợp tác của các chủ thể, mỗi chủ thể cần nắm bắt tâm tư, tình cảm, nhu cầu, nguyện vọng của nhau để cùng điều chỉnh hành vi ứng xử phù hợp. Các thành tố của hành vi giao tiếp Vì những quan điểm khác nhau của những thuyết khác nhau mà người ta đưa ra những mô hình với những cấu thành khác nhau trong hoạt động và giao tiếp * Lý thuyết môi truờng xã hội nhấn mạnh yếu tố hoàn cảnh xã hội trong quá trình giao tiếp. Khi làm việc và giao tiếp, tất cả chúng ta tham gia vào một hoàn cảnh xã hội với những vị trí, vai trò xã hội khác nhau, nền văn hoá xã hội khác nhau. Do vậy yếu tố cấu thành gồm - Người gửi - Người nhận 12 - Thông tin * Theo lý thuyết thông tin thì giao tiếp là hoạt động trao đổi thông tin, nhận biết tác động lẫn nhau trong quan hệ giữa người với người. Do đó, tham gia vào sự truyền thông tin của hoạt động giao tiếp bao gồm các yếu tố - Bộ phát hay còn gọi là nguồn, là người phát ra tín hiệu trong giao tiếp, người phát có thể là hai phía Con người tiến hành giao tiếp vì họ có thông tin và có cảm xúc muốn trao đổi với nhau. Quá trình trao đổi thông tin là quá trình hai chiều, trong đó một người gửi thông tin còn người kia nhận và sau đó “người nhận” đưa ra thông tin phản hồi ngược cho người gửi - Mã hoá là thông tin biến thành ký hiệu, lời nói hay chữ viết + Thông điệp phát bao gồm những nội dung muốn truyền đạt. Đây là mối quan hệ quan trong nhất trong giao tiếp truyền thông. + Thông điệp muốn truyền đạt có thể là ý tưởng cảm xúc hay là một thông tin nào đó mà người phát muốn nhận biết và hiểu cảm xúc. Thông điệp này được người phát mã hoá để chuyển đi + Thông điệp nhận là điều người nhận giải mã tạo cho nó một ý nghĩa - Kênh Là cách liên lạc giữa bộ phát và bộ thu Ví dụ kênh thính giác hoặc kênh thị giác - Giải mã Là quá trình hiểu bản tin của người nhận. - Bộ thu Người nhận thông điệp từ người khác hay còn gọi là thính giả hoặc người nghe - Đáp lại Là sự phản hồi thông tin ngược trở lại đến người gửi - Tiếng ồn Tiếng ồn còn gọi là độ nhiễu bao gồm môi trường truyền thông. Ví dụ Hai người đối thoại trực tiếp thì môi trường là không khí, tiếng ồn xe cộ, điện thoại. Ghi chú - Bộ phát và bộ thu là thành phần chính của giao tiếp tức là người nói và người nghe. - Thông điệp và kênh là các công cụ chính của giao tiếp - Mã hoá và giải mã, đáp lại và phản hồi 4 chức năng chính của giao tiếp. - Tiếng ồn là thành phần cuối của hệ thống. 13 Thông tin phản hồi Ý nghĩa Mã hoá Người phát Thông điệp Tiếp nhận Giải mã Người nhận Kênh Nhiễu Sơ đồ cho thấy, một người muốn chuyển một ý nghĩ, một sự kiện nào đó đến người nhận thì phải dùng trí nhớ để mã hóa thông điệp. Người nhận, trên cơ sở tiếp nhận các tín hiệu ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, xử lý chúng thông qua trí nhớ để các tín hiệu được phiên dịch và trở thành có ý nghĩa đối với người nhận. Kênh Khi giao tiếp thông điệp đã mã hóa được chuyển qua một kênh hay nhiều kênh. Nếu cuộc giao tiếp diễn ra trực tiếp mặt đối mặt thì các kênh có thể một vài hoặc năm giác quan. Điển hình là chúng ta dựa vào hình ảnh thị giác và âm thanh làm các kênh khi nói và nghe, tuy nhiên thay vì sự giao tiếp mặt đối mặt chúng ta có thể lựa chọn để dùng một kênh điện tử như điện thoại hay vô tuyến truyền hình, facebook thính giác, thị giác, trong một số trường hợp nào đó, chúng ta có thể lựa chọn cách gửi một thông điệp đến một ai đó bằng phương tiện tiếp xúc thân xác, chẳng hạn như vỗ vai người khác.. Người giao tiếp – người gửi nênluyeenj tập để có kỹ năng lưuaj chọn kênh giao tiếp, mỗi kênh giao tiếp đòi hỏi những phương pháp phát triển ý tưởng khác nhau và tác động khác nhau đến đối tượng giao hạn, việc chọn các kênh điện tử đã làm thay đổi bản chất của sự giao tiếp chính trị. Các ứng cử viên tổng thống các nước đã từng đi kinh lý khắp đất nước để đọc bài diễn văn trong các chiến dịch vận động tranh cử. Nhưng ngày nay, thông qua việc sử dụng vô tuyến truyền hình, họ có thể đến với một số lượng dân chúng rộng lớn mà không cần phải đi đâu cả. Vậy kênh điện tử đã thay thế cho kênh “mặt đối mặt”. Một khâu quan trọng trong mạch truyền thông là sự phản hồi, tức là người nhận phát tín hiệu trả lời người đã truyền đi bản thông điệp. Nó báo cho người phát biết thông điệp đã được tiếp nhận và được hiểu như thế nào. Trên cơ sở đó, người phát có thể điều chỉnh hoặc chuyển tiếp những thông điệp cần thiết khác. Môi trường. Giao tiếp không thể xảy ra trong chân không, nó luôn luôn tồn tại trong một ngữ cảnh nào đó, một môi trường nào đó. Nơi mà chúng ta hiện diện và người cùng hiện diện với chúng ta đều có sự ảnh hưởng đến sự giao tiếp của chúng ta. Những nhân tố như kích thích của căn phòng, màu sắc của tường, sự trang trí, kiểu và cách sắp xếp của các đồ gỗ, 14 kêir chiếu sáng và căn buồng có đông đúc hay không…đều có ảnh hưởng đến cảm xúc của chúng ta cảm xúc ra sao, cách chúng ta tiếp xúc như thế nào… Như vậy, truyền thông giữa các cá nhân là một quá trình tương hỗ và tuần hoàn Hiệu quả của quá trình truyền thông còn bị chi phối bởi các yếu tố được gọi là "nhiễu". Đó là những yếu tố của người phát, người nhận hoặc trong môi trường gây cản trở đối với việc truyền tin. Thông thường các yếu tố đó bao gồm - Sự khác biệt về văn hoá - Môi trường truyền thông không tốt. Ví dụ tiếng ồn quá lớn, thời tiết quá nóng... - Ý không rõ ràng, quá trình mã hoá bị lỗi. Chẳng hạn, người nói sử dụng từ ngữ không chính xác, dùng từ địa phương. + Kênh truyền thông hoạt động không hiệu quả phát âm không chuẩn, độ nhạy cảm của giác quan kém, điện thoại trục trặc. - Các yếu tố tâm lý ở người phát và người nhận sự không tập trung, sự nóng vội, những định kiến, thành kiến, tâm trạng không tốt. Cho nên trong giao tiếp, chúng ta cần chú ý tới các yếu tố nhiễu và tìm cách loại bỏ hoặc hạn chế ảnh hưởng của chúng. Hoàn thiện quá trình giao tiếp giữa các cá nhân Quá trình giao tiếp có hiệu quả hay không trước hết phụ thuộc vào người phát và người nhận. Theo các nhà Giao tiếp học , để nâng cao hiệu quả của quá trình, người phát và người nhận cần chú ý đến sáu vấn đề, được thể hiện trong sáu chữ Cái gì? tại sao? với ai? bao giờ? ở đâu? bằng cách nào? * Đối với người phát Khi đưa ra thông điệp, chẳng hạn bằng lời nói, người nói cần chú ý - Cái gì? tức là nói cái gì, nói vấn đề gì? Nhiều khi chúng ta lỡ lời, nói ra điều không nên nói, vẫn đề nào không nên và vấn đề nào không được nói ra. - Tại sao? tức là tại sao phải nói ra điều đó, nói điều đó nhằm mục đích gì? - Với ai? tức là cần tìm hiểu người nghe là ai. Ai ở đây không chỉ đơn giản là một cái tên, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp, địa vị xã hội hay học vấn của người nghe mà còn bao gồm cả đặc điểm tâm lý của họ như tâm trạng, tình cảm, sở thích, nhu cầu, quan điểm, lập trường, tín ngưỡng, niềm tin, thói quen... Trong giao tiếp, chúng ta phải tìm hiểu đối tượng giao tiếp để từ đó có cách giao tiếp, ứng xử phù hợp. Về vấn đề này, bằng cách này và với đối tượng nàychúng ta được hoan nghênh như với đối tượng khác không có nghĩa cũng sẽ như vậy - Khi nào? tức là đưa ra bản thông điệp vào thời điểm nào cho phù hợp. Một điều cần nói, nhưng nói ra khong đúng lúc thì trọng lượng của lời nói cũng giảm sút, thậm chí làm cho người nghe khó chịu. - Ở đâu, chú ý đến vấn đề này, người phát cần cân nhắc xem đưa ra bản thông điệp ở đâu, trong hoàn cảnh nào để đạt hiệu quả cao nhất. Việc chọn sai địa điểm có thể làm 15 giảm hiệu quả giao tiếp, thậm chí hoàn toàn không đạt mục đích mong muốn. Ví dụ. Bạn góp ý cho một người để mong họ tiến bộ, nhưng bạn lại làm điều đó trước mắt người thứ ba, vì thế người đó đã không tiếp nhận lời góp ý mà còn phản ứng lại một cách gay gắt. - Bằng cách nào? tức là cân nhắc xem truyền thông tin dưới hình thức nào, bằng cách nào cho hiệu quả. Một thông điệp có truyền đạt đến người nhận bằng nhiều cách khác nhau, nhưng hiệu quả thì không giống nhau. Vì vậy , chúng ta cần biết lựa chọn cách truyền thông tin tối ưu nhất. Ngoài ra, khi truyền tin, người phát cũng tạo tâm lý thoải mái, hào hứng ở người nhận, đồng thời phải theo dõi sự phản hồi để điều chỉnh quá trình truyền tin cho có hiệu quả. * Đối với nguời nhận Để tiếp nhận và giải mã thông điệp từ người phát một cách đầy đủ, chính xác, người nhận cần chú ý - Cái gì? tức là người nói đang nói cái gì, vấn đề gì?. - Tại sao? tức là tại sao người nói lại đề cập điều đó? - Ai? người nói là ai tâm trạng, tình cảm, sở thích, nhu cầu, quan điểm, lập trường, tín ngưỡng, niềm tin, thói quen... - Khi nào? người nói nói điều đó khi nào, ngay sau nhận được thông tin hay đã có sự cân nhắc, suy tính - Ở đâu? người nói đưa ra điều đó ở đâu, nơi nào, trong tình huống nào? - Bằng cách nào? người truyền thông điệp đi bằng cách nào, dưới hình thức nào? Cũng như người phát thường đặt mình vào vị trí người nhận để hiểu người nhận và từ đó định hướng, điều chỉnh quá trình truyền tin, người nhận cần đặt mình vào vị trí người phát để hiểu được tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của người phát, tại sao người phát lại đưa ra vấn đề đó...Ngoài ra người nhận cần gạt bỏ những mặc cảm, những thành kiến nếu có về người phát, vì nếu không, chúng làm cho người nhận giả mã thông điệp một cách sai lệch. Các quan hệ trong hành vi giao tiếp. a. Mối quan hệ trong giao tiếp. Chúng ta biết rằng Thông qua hoạt động của con người tiếp xúc với nhau để hình thành các mối quan hệ xã hội và mối quan hệ liên nhân cách. Để đáp ứng nhu cầu, các cá nhân tham gia vào hoạt động, nhưng hoạt động của người không bao giờ tồn tại một cách độc lập tuyệt đối mà nó còn liên quan đến hoạt động của người khác, đòi hỏi họ phải phân công hợp tác, phân công nhiệm vụ và vai trò trong hoạt động... Trong các mối quan hệ xã hội, mỗi cá nhân có một vai trò nhất định đó là những chức năng xã hội của cá nhân, là vị trí các nhân trong hệ thống quan hệ xã hội khách quan, nó quy định phương thức hoạt động tương ứng, quy định những cách ứng xử của cá nhân mà người khác chờ đợi ở vai trò đó. 16 Cũng trong quá trình hoạt động và giao tiếp hình thành mối quan hệ tình cảm, tâm lý nghĩa là thông qua quá trình này hình trhành mối quan hệ liên nhân cách. Như vậy mối quan hệ liên nhân cách như là mối quan hệ hình thành từ bên trong các mối quan hệ xã hội. b. Vai trong giao tiếp. Theo lý thuyết vai xã hội thì "vai" vừa là chức năng của xã hội vừa là chức năng giao tiếp giữa người với người. Mỗi người có thể có nhiều vai. Cá nhân luôn xác định hành vi con nguời sao cho phù hợp với "vai" của mình trong nhóm xã hội. Hành vi của một người không chỉ phụ thuộc vào tính chất của kích thích mà còn phụ thuộc vào vai trò của cá nhân trong nhóm. Mỗi cá nhân có thể có nhiều vai trò. Phạm vi và số lượng khác nhau. Điều này phụ thuộc vào tính phong phú của các nhóm xã hội mà mỗi cá nhân tham gia vào, phụ thuộc vào các dạng hoạt động, mối quan hệ xã hội cũng như nhu cầu và vai trò tổ chức của người đó. Con người càng tích cực hoạt động bao nhiêu thì càng mở rộng giao tiếp bấy nhiêu, càng tích cực giao tiếp bao nhiêu thì càng tham gia hoạt động và tạo lập nên được nhiều mối quan hệ xã hội bấy nhiêu. Ví dụ trong gia đình vai của chúng ta là con nhưng khi ta ở cơ quan vai của ta là giám đốc. Sự nhập vai của một người vào nhóm xã hội phụ thuộc vào những yếu tố như trình độ, kiến thức, kinh nghiệm... của cá nhân. Trong giao tiếp mỗi cá nhân tham gia giao tiếp với nhiều cá nhân, với nhiều nhóm và ở mỗi nhóm khác nhau cá nhân thay đổi vai trò của mình, chính điều này tạo nên sự sinh động, đa dạng trong giao tiếp. Trong mỗi cá nhân có thể có nhiều vai trò, cùng một lúc sự mang vai trò kép này lấn át vai trò kia, tuỳ vào điều kiện, tư duy, hoàn cảnh của từng người. Tuy nhiên dù mang đa chức năng, hay vai trò kép ở mỗi cá nhân có một cách giao tiếp riêng đại diện cho "cái tôi của mình hoặc thiên về tư duy hoặc thiên về hành động cử chỉ, lời nói, hành vi. c. Mối quan hệ khách thể - chủ thể trong giao tiếp. Trong các hoạt động của con người nói chung bao giờ cũng tồn tại chủ thể khách thể, trong đó chủ thể là đối tượng tác động, còn khách thể là đối tượng nhận sự tác động. Khách thể tác động có thể là một vật thể, có thể là con người, nhóm người. Trong hoạt động lao động hướng tác động thường đi theo hướng chủ thể đến khách thể để tạo ra sản phẩm. Trong hoạt động giao tiếp chủ thể tác động là con người và khách thể tác động cũng là con người. Khách thể là những cá nhân với tính tích cực, những nét tính cách độc đáo đã tác động mạnh mẽ trở lại chủ thể. Các cặp "chủ thể, khách thể" với sự tác động hai chiều. Trong nhiều trường hợp của sự giao tiếp, sự truyền thông không phải là một chiều mà là hai chiều, người nghe và người nói luôn trao đổi vị trí cho nhau, các cá nhân tác 17 động qua lại lẫn nhau, tạo nên những biến đổi, thái độ tình cảm, tri thức và các biểu hiện xu hướng nhân cách của nhau. Mối quan hệ "chủ thể - chủ thể" này còn chịu sự chi phối bởi các "vai" trong giao tiếp. Chính điều này tạo ra sự bất bình đẳng của cấu trúc xã hội và nó được thể hiện rõ nét nhất trong giao tiếp. Câu hỏi ôn tập 1. Anh, chị hãy phân tích vai trò của giao tiếp trong đời sống con người và xã hội. 2. Hành vi giao tiếp bao gồm những thành tố nào? Tìm mối liên hệ giữa chúng? 3. Giao tiếp có những đặc trưng cơ bản nào? Anh chị hãy phân tích đặc trưng Tính xã hội của giao tiếp. 4. Thế nào là phương pháp quan sát? Anh chị hãy phân tích các yêu cầu khi tiến hành phương pháp này. 5. Vận dụng phương pháp quan sát để quan sát thái độ học tập của học sinh ở Trường Tiểu học. 18 CHƯƠNG 2 BẢN CHẤT XÃ HỘI CỦA GIAO TIẾP GIAO TIẾP NHƯ MỘT QUÁ TRÌNH TRAO ĐỔI THÔNG TIN Trong quá trình giao tiếp, tiếp xúc các cá nhân trao đổi, chia sẻ các suy nghĩ, ý tưởng, cảm xúc mà ta gọi là thông tin cho nhau. Chính bởi vậy lý thuyết điện tử cho rằng giao tiếp là quá trình truyền tin. Đối thoại Đây là hình thức giao tiếp mà sự truyền thông tin xảy ra trực tiếp giữa các đối tác tham gia vào quá trình giao tiếp. Thông tin ở đây được trao đổi chia sẻ và là thông tin hai chiều. Mạng giao tiếp Khái niệm mạng giao tiếp Mạng giao tiếp là tập hợp toàn bộ các kênh trong một nhóm có tổ chức theo thông tin được truyền đi. + Bavelas 1950 là người đầu tiên nghiên cứu thực hiện về mạng giao tiếp. Theo ông có 5 loại mạng giao tiếp sơ đồ. a b c d 19 e Nhìn vào sơ đồ trên chúng ta thấy - Mạng dây chuyền với kết cấu dọc có 5 cấp. Ở mạng này, thông tin được truyền theo chiều dọc từ dưới lên và từ trên xuống. Từ người lãnh đạo cao nhất đến cấp dưới thấp nhất và ngược lại, từ cấp dưới thấp nhất đến cấp trên cao nhất, thông tin phải truyền qua ba cấp trung gian. Vì vậy, về nguyên tắc, mạng này đảm bảo tính chính xác cao của thông tin vì qua nhiều lần kiểm tra, vai trò của từng cấp lãnh đạo cũng được thể hiện rõ, tuy nhiên, nó không tạo ra nhiều mối quan hệ và tốc độ truyền thông cũng chậm. - Ở mạng chữ Y, năm thành viên được phân ra thành bốn cấp một thành viên phụ trách hai thành viên khác, trên thành viên này còn có hai cấp nữa. Thông tin cũng được truyền theo chiều dọc, không có trao đổi thông tin theo chiều ngang. Do đó, về cơ bản, ưu điểm và nhược điểm của mạng này không khác mạng dây chuyền là bao. - Mạng bánh xe có hai cấp, bốn thành viên cấp dưới không có quan hệ truyền thông với nhau, thậm chí khôvng biết nhau. Tuy mạng này tạo ra ít mối quan hệ, tính chính xác của thông tin không cao vì chưa qua kiểm tra, nhưng tốc độ truyền thông nhanh, và rất cơ động, linh hoạt, hơn nữa vai trò của người lãnh đạo được thể hiện rõ. Cho nên mạng này rất quen thuộc với các công ty tắc xi, tổng đại lý với các đại lý... Ngoài ra, quá trình truyền thông còn đảm bảo tính bí mật. Vì vậy không phải ngẫu nhiên mà mạng này thường được áp dụng ở các tổ, nhóm tình báo hoạt động trong lòng địch. - Mạng vòng tròn cho phép mỗi thành viên có quan hệ truyền thông trực tiếp với hai thành viên gần mình nhất, với các thnàh viên còn lại thì phải gián tiếp qua hai người này. Truyền thông theo mạng vòng tròn có ưu điểm là thông tin chính xác, tốc độ truyền thông tương đối cao, tuy nhiên vai trò của người lãnh đạo cao nhất không được thể hiện rõ. - Ở mạng hình sao, mỗi thành viên đều có quan hệ truyền thông trực tiếp với tất cả các thành viên còn lại, nghĩa là quan hệ không bị hạn chế, tốc độ truyền thông nhanh, Tuy nhiên, vai trò của người lãnh đạo không được thể hiện rõ. Người ta thường so sánh mạng này với một hội đồng mà trong đó không có một người được bổ nhiệm chính thức hoặc tạm giữ vị trí chi phối, vì vậy, không khí ở đây là bình đẳng, dân chủ và mỗi thành viên của nó có thể tự do phát biểu ý kiến. Một mạng truyền thông tốt là mạng có tốc độ truyền thông nhanh, tốc độ chính xác cao, thể hiện quyền lực của người lãnh đạo và tạo ra nhiều mối quan hệ để thoã mãn các thành viên. Như vậy, không có mạng truyền thông nào là tốt nhất đối với mọi trường hợp này nhưng không phù hợp với trường hợp khác. Chính vì vậy, hiện nay ở nhiều tổ chức, người ta thường kết hợp nhiều loại mạng truyền thông. NHẬN THỨC TRONG GIAO TIẾP Trong giao tiếp xã hội chúng ta còn nhận thức, tìm hiểu người khác và nhận thức bản thân tự nhận thức, tức là xây dựng nên hình ảnh về đối tượng giao tiếp và về bản thân. Nhận thức đối tượng giao tiếp 20 NHẬP MÔN KHOA HỌC GIAO TIẾP NHẬP MÔN KHOA HỌC GIAO TIẾP Nguyễn Sinh Huy – Trần Trọng Thuỷ Chương 1 KHOA HỌC GIAO TIẾP VÀ HÀNH VI GIAO TIẾP I. GIAO TIẾP VÀ VIỆC NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ GIAO TIẾP A. VAI TRÒ CỦA GIAO TIẾP TRONG XÃ HỘ 1. Giao tiếp có vai trò rất quan trọng đối với quá trình xã hội hoá của mỗi cá nhân và cả với sự phát triển, tiến bộ của xã hội nói chung Trong diễn tiến của xã hội, các cá nhân có sự tác động qua lại với nhau, mỗi cá nhân qua giao tiếp sẽ học hỏi được những hành vi xã hội thích hợp và hiểu được tác dụng, ý nghĩa của những hành vi đó trong điều kiện xã hội mà họ đang sống. Nói theo quan điểm xã hội học thì đó chính là văn hoá xã hội, là các yếu tố đảm bảo cho sự hợp tác, sự chung sống của các cá nhân trong xã hội. – Giao tiếp có tính quần chúng Mass Commumcation hay còn gọi là truyền thông đại chúng Mass Media lại càng có vai trò và tác dụng quan trọng trong xã hội hiện đại. Thuộc phạm vi này có báo chí, điện ảnh, phát thanh, truyền hình, sách báo, áp phích…; thông qua các phương tiện ấy một lượng thông tin văn hóa khổng lồ được chuyển tải tới mọi người. Siberinan 1981 gọi chúng là những truyền bá tập thể, tức là Media. Theo ông, trước khi tính đến giai đoạn Media, xã hội loài người đã trải qua giai đoạn văn hoá nói truyền miệng và sau đó là giai đoạn văn hóa viết mà đỉnh cao là kỹ thuật in. Kĩ thuật in vẫn giữ vai trò quan trọng giai đoạn Media, nhưng dần dần các Kỹ thuật truyền thanh và truyền hình ngày càng có vai trò nổi bật.  Xã hội càng phát triển và càng tiến bộ thì con người càng chuyển sang trạng thái mới của xã hội hoá và cá nhân hoá một mặt người ta cảm thấy mình ngày càng hội nhập, gắn với cộng đồng, nhân loại Mọi việc xảy ra trên toàn cầu như chiến tranh, xung đột sắc tộc, ô nhiễm môi trường, thiên tai, nạn khủng bố… hầu như được tất cả mọi người chứng kiến và qua các phương tiện truyền thông cảm nhận được sự liên quan… Nhưng mặt khác, cũng lại do các phương tiện kỹ thuật truyền thông truyền thanh, truyền hình, điện thoại di động… mà chúng ta cảm thấy cuộc sống mỗi cá nhân ngày càng biệt lập chia tách hơn trước với xã hội, với cộng đồng. Theo Mom 1986 với kỹ thuật hiện đại, con người qua “giao tiếp công nghệ” gắn mình với các nguồn văn hoá theo sự lựa chọn riêng và hầu như sống ngoài xã hội sinh động. Nhưng đôi khi toàn thế giới có thể đạt tới từng độ cao, các Media có tính quần chúng như báo chí, phát thanh, truyền hình… đã gây sức ép xã hội rất lớn đến mỗi cá nhân, thậm chí có thể xuyên tạc nhào nặn lại cả các thông tin trước khi cung cấp cho mọi người. Khi còn có bất công trong xã hội, các tổ chức độc quyền, lũng đoạn trong xã hội nắm các phương tiện này thì các cá nhân sẽ mất tính độc lập, tự chủ trong suy nghĩ và hành động do chịu ảnh hưởng ấy. Ngày nay nhân loại rất chú ý đến ảnh hưởng của truyền hình, nhất là đối với sự phát triển trí tuệ và nhân cách của trẻ em. Như vậy là các Media có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống cá nhân, với sự phát triển của văn hoá giáo dục nói chung. Trong xã hội hiện đại, chính các Media chuyển tải các nội dung văn hoá và tạo ra cái gọi là “văn hoá quần chúng”, ảnh hưởng tới sự phát triển chung.  Giao tiếp không lời Nonverbal Communication cũng có tác dụng quan trọng. Đó là sự giao tiếp bằng các cử chỉ, các biểu hiện của cơ thể của con người. Trong quá trình giao tiếp, sự vận động của cơ thể có chức năng truyền đạt các nội dung thông tin, đồng thời biểu lộ các sắc thái xúc cảm, tình cảm của con người từ các phía giao tiếp với nhau. Các dân tộc bán khai thiên về lối giao tiếp không lời. Trong các công trình nghiên cứu gần đây người ta cũng thấy ở các dân tộc với các nền vần hóa khác nhau cũng đều có những biểu lộ xúc cảm yêu thương, giận dữ, buồn bã, sợ hãi…, tuy mức độ và cách biểu hiện có khác nhau người châu Âu, châu Phi biểu lộ tình cảm sôi nổi trái lại người châu Á kín đáo, ít biểu lộ tình cảm ở nơi công cộng. Trong công trình nghiên cứu giao tiếp của Birdwhistell, tác giả này đã giả định là những tư thế, cử chỉ trong giao tiếp không lời là kết quả của sự lựa chọn tự nhiên – nhưng các cử chỉ này tự nó không có ý nghĩa gì, mà chúng chỉ trở nên có ý nghĩa khi đặt trong mối tương tác giữa các cá nhân. Trong trường hợp này, văn hoá có vai trò rất quan trọng – bởi vì thông qua văn hóa, người ta lựa chọn từ hàng ngàn cử động của thân thể để tạo thành hệ thống giao tiếp văn hoá đúng với ý nghĩa của nó. 2. Tầm quan trọng của các kỹ năng giao tiếp trong cuộc sống con người Trong cuộc sống, xây dựng được mối quan hệ với người khác là một nhu cầu có tính bắt buộc của con người. Một người bình thường bao giờ cũng mong muốn có quan hệ với người khác, nhất là khi có những nhu cầu riêng tư muốn được đáp ứng, thoả mãn qua việc tương giao, ảnh hưởng lẫn nhau. Sự thành công trong sự nghiệp, hạnh phúc gia đình, tình cảm bạn bè – tất cả đều tuỳ thuộc vào việc xây dựng và duy trì các mối quan hệ giao tiếp với mọi người. Giao tiếp chính là khía cạnh đặc biệt nhất, là tiềm năng thể hiện niềm hân hoan, sự vui thích, hứng thú trong sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau tạo cho nhau sự ấm cúng, thúc đẩy mỗi người tự hoàn thiện mình trong mối tương giao với người khác. Tình bạn sâu sắc, đằm thắm trong cuộc sống đời thường, tuổi trẻ, quan hệ tình yêu… tạo ra sự hoà nhập với người khác giới – tất cả chính là các nhân tố thúc đẩy con người sống hoà hợp, gắn bó với nhau, cùng phấn đấu cho mục đích chung, làm cho cuộc sống có ý nghĩa và ngày càng đậm đà, phong phú hơn. Nói cụ thể hơn, cuộc sống của mỗi chúng ta có ngày càng hoàn chỉnh, phong phú, có ý nghĩa và ta cảm thấy thoả mãn hay không là tuỳ thuộc vào tính chất của các mối quan hệ giữa ta và người khác; điều đó nói lên rằng trong cuộc sống của mỗi người, nếu chúng ta muốn có hạnh phúc cá nhân đích thực thì phải tự khẳng định mình và thông qua các mối quan hệ với những người khác mà góp phần xây dựng hạnh phúc chung của toàn xã hội. Mối quan hệ giao tiếp giữa người và người, như trên đã nêu là rất thiết yếu đối với hạnh phúc cá nhân ở nhiều khía cạnh khác nhau tương giao, quan hệ giúp chúng ta tích luỹ tri thức, hiểu thấu đáo về “thế thái nhân tình”; giao tiếp, hội nhập giúp ta hiểu rõ mình hơn, hình thành được phẩm chất nhân cách theo hướng tích cực và thuần phác, tạo ra sự hài hoà cân đối trong cuộc sống vật chất và tinh thần. Không thể hình dung sự phát triển nhân cách của mỗi người mà không có sự phát triển đồng thời các phẩm chất, năng lực của cá nhân với sự phát triển của người khác, bởi vì sự phát triển các mối tương quan này luôn luôn diễn ra song song, phụ thuộc lẫn nhau. Đặc biệt là đối với trẻ em; chúng cần được lớn lên, được nuôi dưỡng, săn sóc và giáo dục trong mối quan hệ với gia đình; nhà trường và xã hội – nhất là khi bắt đầu rời gia đình, vào học ở nhà trường. Ở đây, các mối quan hệ giao tiếp với bạn bè, với mọi người đột ngột được mở rộng. Sau này lớn lên khi đi làm, mối giao tiếp với xã hội, với những đống nghiệp của chúng ta càng ngày càng mở rộng và phức tạp hơn. Nhìn chung từ gia đình, các bạn bè cùng trang lứa, đồng nghiệp, thầy cô giáo mà con người lần lượt thu nhận, thể nghiệm được các hiểu biết, các kỹ năng, hình thành được khả năng mới, có thái độ rõ ràng, sâu sắc. Những điều này rất có ý nghĩa đối với sự phát triển nhân cách của bản thân. Cùng với thời gian, và sự trưởng thành, số lượng các quan hệ với những người mà chúng ta cần có quan hệ, giao tiếp ngày càng đông càng phức tạp thêm mãi. Điều này cũng có nghĩa là nhờ giao tiếp, và thông qua giao tiếp mà chúng ta xây dựng quan hệ lành mạnh với mọi người xung quanh. Sự tăng trưởng và phát triển của chúng ta về tri thức, về ý thức xã hội ở các mức độ nhất định được quyết định bởi tính chết của các mối quan hệ giao tiếp với mọi người xung quanh và trên thực tế, bản sắc cá nhân của mỗi người được hình thành trong quá trình quan hệ giao tiếp với mọi người. Mỗi khi giao tiếp, tương tác với người khác, chúng ta có dịp quan sát, ghi nhận các phản ứng, các thái độ phản hồi của họ, nhờ đó mà biết cách tự tìm hiểu, nhìn nhận, đánh giá mình qua thái độ và cách nhìn nhận của họ đối với bản thân ta một cách sinh động, chân thực và khách quan khi được đánh giá cao, ta thiên về sự phấn đấu để xứng đáng như vậy. Chúng ta sẽ có dịp học hỏi những điều hay rút ra từ quan hệ giao tiếp với người khác, từ đó tự tin hơn, tự khẳng định được mình. Hơn thế nữa khi chúng ta tìm hiểu thế giới xung quanh – để có thể tin tưởng, phê phán cái gì là ảo tưởng cái gì là chân lý, một phần chúng ta cũng học hỏi, rút ra được từ trong các quan hệ giao tiếp mà củng cố nhận thức và cảm nghĩ của chính mình. Thậm chí cả khi chiêm ngưỡng một cảnh đẹp, ngâm một bài thơ, thưởng thức một áng văn, một tác phẩm nghệ thuật, để có thể kiểm chứng cảm nghĩ và kiến thức của mình, chúng ta đều cần phải trao đổi “thông tin” với người khác và tốt hơn cả là chia sẻ cách hiểu, cách cảm ấy thông qua quan hệ giao tiếp với mọi người. Ngay cả sức khoẻ và tâm lý của một người cũng cần được xây dựng trên mối quan hệ tương tác với những người khác. Theo Johnson 1980, khả năng xây dựng và duy trì các mối quan hệ hợp tác và phụ thuộc lẫn nhau với những người khác thường được xem như là sự biểu lộ sơ khởi của sức khoẻ tâm lý. Một số người vì một vài lý do nào đó không thể xác định nổi mối quan hệ giao tiếp với mọi người, thường có thái độ lo âu, suy nghĩ, bất lực và cô đơn. Hầu như kỹ năng giao tiếp vụng về cũng là sự biểu lộ nguyên nhân của tâm bệnh ở người. Chúng ta, những người bình thường cần phải tham gia vào đời sống cộng đồng, và thông qua các quan hệ giao tiếp giao lưu trong đời sống ấy mà giữ lấy tâm hồn lành mạnh, tạo ra sự bình an trong cuộc sống. Các công trình nghiên cứu về xã hội học y học cho thấy nhiều bệnh trầm trọng như bệnh tim mạch, bệnh tâm thần… thường xảy ra nhiều hơn ở những người luôn luôn bị cô lập, bị ức chế về tâm lý và có cuộc sống cô đơn không bình thường. Chính “cuộc sống bình thường” mà chúng ta thường quan niệm đã được tạo ra nhờ mối giao tiếp với người khác và tạo cho chúng ta cơ hội để đáp ứng lẫn nhau, khẳng định nhau, trở thành con người có văn hoá, có sức khoẻ, có giá trị và “bình thường”. Với quan điểm hoà nhập, cởi mở hơn để xem xét mối quan hệ giao tiếp và tác dụng của nó, chúng ta khẳng định rằng sự tiến hoá và sự tồn tại – phát triển có ý nghĩa của loài người luôn luôn gắn chặt với khả năng con người đề xuất tạo lập và phát triển được mối quan hệ giao tiếp ổn định với mọi người. Theo con đường phát triển và tiến hoá, chúng ta được sinh ra, được nuôi dưỡng và phát triển trong quan hệ gắn bó với mọi người thước hết ở gia đình, được giáo dục bởi người khác về văn hoá – đạo đức, khoa học, ngôn ngữ…, được học và rèn luyện một cách sáng tạo theo khuôn mẫu các giá trị của xã hội, trong một nền văn hoá đích thực. Nền tảng của mọi nền văn minh và của mọi xã hội được sáng tạo, lưu truyền, phát triển thông qua khả năng loài người hợp tác với nhau, cùng phối hợp hành động để đạt tới mục tiêu chung. Xã hội càng phát triển càng trở nên phức tạp; ảnh hưởng tới đời sống xã hội của khoa học kỹ thuật càng mạnh mẽ thì vai trò của giao tiếp giữa người và người càng có ý nghĩa sâu sắc và mang tính nhân văn. Cho dù kinh tế phát triển, khoa học và công nghệ đem lại mức sống và lối sống cao đến đâu thì con người vẫn phải hợp tác, liên kết với nhau vì lợi ích, hạnh phúc chung, chia sẻ ngọt bùi, trao đổi với nhau về tài nguyên, về sản vật, hàng hoá và cùng nhau làm lụng mưu cầu hạnh phúc cho nhau vì một xã hội văn minh, hiện đại. Cái khó nhất ở đây là chúng ta phụ thuộc vào nhau khá chặt chẽ, cho nên lại cần trang bị cho nhau kiến thức, kỹ năng và thái độ cần thiết trong giao tiếp hàng ngày. Trong một xã hội tốt đẹp thì phần đông con người và hoạt động của họ dường như dựa trên tình thương yêu đùm bọc, mến mộ nhau giữa người và người. Con người có bản chất là con người xã hội. Niềm hạnh phúc và sự hoàn thiện của mỗi chúng ta phụ thuộc khá nhiều vào khả năng xây dựng quan hệ tốt đẹp và biết giao tiếp với người khác một cách có định hướng, có hiệu quả. Nếu thật sự có tính nhân loại, có tính hướng thiện ở con người thì các tính đó trước hết phải thể hiện thông qua sự hội nhập vào các nền văn hoá của những con người, nhờ đó thể hiện được bản sắc, bản lĩnh người của mình, trước hết xuất phát từ việc giao tiếp và thông qua giao tiếp. Rất nhiều từ ngữ, thể hiện mối tương quan này, phản ánh tính chất của các quan hệ trong giao tiếp như lòng tử tế, lòng nhân từ, đức khoan dung, sự suy xét, tính dịu dàng, tình yêu sự thông cảm, sự quan tâm, sự đáp ứng, sự tế nhị trong quan hệ – tất cả vừa là đạo đức, vừa mang tính nhân đạo cao. Hướng vào việc xây dựng một xã hội “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”, trước hết chúng ta phải xây dựng được quan hệ đoàn kết, gắn bó và hợp tác với nhau coi trọng vai trò của giao tiếp. B. CÁC QUAN NIỆM TRIẾT HỌC VỀ GIAO TIẾP Trước đây, trong một thời gian dài, giao tiếp chỉ được xem như là một phạm trù của triết học duy tâm nghiên cứu về hoạt động giao tiếp giữa người với người, qua đó cái “tôi” được biểu lộ ở người khác. Giao tiếp được nghiên cứu đầy đủ trong Chủ nghĩa hiện sinh của Iaxpecxơ Cáclơ 1883 – 1969 đại diện cho những người theo chủ nghĩa hiện sinh Đức. Ông là bác sĩ tâm thần, sau chuyển sang nghiên cứu triết học và theo chủ nghĩa nhân cách Pháp hiện nay. Về lịch sử, thuyết giao tiếp được hình thành để đối lập lại thuyết “khế ước xã hội” bắt nguồn từ phong trào khai sáng trào lưu chính trị xã hội chủ trương thay đổi xã hội hiện tại. Những người theo thuyết giao tiếp như Iaxpecxơ, O. Bonnốp, E. Muniê… nhấn mạnh rằng khế ước xã hội về cơ bản chỉ “là một sự thoả thuận, một sự hợp đồng trong đó những người tham gia bị hạn chế bởi những lời cam kết từ hai phía; họ chỉ tự giác và hiểu nhau dưới ánh sáng của các lời cam kết này, tức là một cách trừu tượng, không có cá tính” Từ điển Triết học. Khế ước – theo họ đó là một liên hệ dựa trên sự chia tách thực tế của những con người. Còn giao tiếp thì được xem là một sự lệ thuộc lẫn nhau được thiết lập một cách tự giác và đối lập lại khế ước. Biện pháp để xác lập sự giao tiếp là tranh luận và trong quá trình này, người ta thấy rõ ràng các tiêu chuẩn tư duy được mọi người thừa nhận lại chia tách họ ra, còn những điều làm họ gắn bó nhau lại là ở chỗ họ khác nhau mỗi người mỗi vẻ. “Mỗi người mỗi vẻ” thật ra là những điều sợ hãi, lo lắng và băn khoăn chủ quan được che đậy công phu, trong đó con người theo cách riêng của mình, rút cuộc lại chỉ thấy mình trên thực tế bị lệ thuộc vào một tập đoàn xã hội nhất định trong xã hội hiện tại. Do đó tranh luận chẳng qua là để làm rõ tính chất lệ thuộc ấy và học thuyết về giao tiếp phải tìm ra mối liên hệ có tính biện chứng giữa những “con người xã hội” với nhau. Hoạt động giao tiếp thật ra vốn tồn tại trong đời sống xã hội từ khi xã hội loài người xuất hiện. Trong các lễ hội, hoạt động giao lưu kinh tế, văn hoá các miền cổ đại La Mã, Hy Lạp, Trung Hoa, Ấn Độ, Đông Nam Á…, các dân tộc đã có những giao lưu văn hoá còn được ghi nhận trong các văn vật, trong các truyền thuyết, trường ca cổ đại trường ca Iliát Ôđixê; Kinh thi, Trường ca Đam San…. Những hình thức giao lưu, giao tiếp về văn hoá, kinh tế gắn liền với trình độ văn minh và quá trình phát triển tiến bộ của xã hội loài người. Ngày nay, vận dụng triết học duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, chúng ta đi đầu nghiên cứu về giao tiếp tìm ra những yếu tố hợp lý để phát triển, tiếp cận với nhu cầu phát triển và tiến bộ của xã hội hiện nay. Tất nhiên chúng ta vừa gạt bỏ các định kiến hẹp hòi đối với việc nghiên cứu về giao tiếp trước đây nhưng mặt khác, vừa thừa nhận rằng nhiều tác giả ở thế kỉ 18 chủ trương làm thay đổi phong tục, tập quán, chính trị… bằng cách phổ biến cái thiện, chính nghĩa và khoa học. Đại diện cho họ là Vônte, Rútxô, Môngtextkiơ, Hécde, Letinh, Silơ, Gớt… Đây là phong trào có ảnh hưởng lớn đến các quan điểm xã hội ở Tây Âu hồi đó cho rằng giao tiếp giữa người và người là nhu cầu nảy sinh gắn liền với những điều kiện lịch sử phát triển của xã hội trong từng giai đoạn nhất định. Những yếu tố như thời gian, không gian, các thể chế xã hội, phong tục tập quán trong một xã hội… luôn luôn quy định phạm vi mức độ của các hoạt động giao tiếp. Như vậy, cũng như hoạt động văn hoá, sự giao tiếp của con người luôn luôn mang tính chất lựa chọn, kế thừa và phát triển những thành tựu, tinh hoa của các thế hệ đi trước truyền lại và góp phần xây dựng nên nền văn hoá cũng như trình độ văn minh của một dân tộc, một quốc gia. Nghiên cứu về giao tiếp để lĩnh hội hết ý nghĩa, nội dung sâu xa của nó phải gắn liền với việc nghiên cứu về lịch sử văn hoá, về văn hoá học nói chung. II. KHÁI NIỆM GIAO TIẾP VÀ CÁC CÁCH TIẾP CẬN A. KHÁI NIỆM GIAO TIẾP Trong những lúc thức tỉnh, con người thường xuyên đang giao tiếp theo những cách khác nhau và trong những môi trường khác nhau, vừa gửi và vừa nhận các thông điệp. Người lớn sử dụng 42,1% tổng số thời gian giao tiếp bằng ngôn ngữ của mình cho việc lắng nghe, trong khi đó sử dụng 31,9% thời gian giao tiếp của mình cho việc nói. Chỉ có 15% thời gian giao tiếp của chúng ta dành cho việc đọc và 11% cho việc viết. Paul Tory Rankin, 1930. Hằng ngày, bạn có thể nói chuyện vôi các bạn bè của mình, lắng nghe các thành viên trong gia đình, nhận được các thư từ, quan sát và phản ứng với các cử chỉ, điệu bộ và nét mặt của những người khác, thậm chí tiếp tục các cuộc “trò chuyện” với bản thân mình. Bạn – giống như mọi người – là một con người giao tiếp. Mỗi ngày, tuỳ theo những khả năng của mình chúng ta nói, lắng nghe, viết, đọc suy nghĩ và giải thích các thông điệp. Không có những khả năng này thì chúng ta sẽ mất đi nhiều thứ mà loài người đã tạo ra cho chúng ta. Giao tiếp của con người là một quá trình có chủ định hay không chủ định, có ý thức hay không ý thức mà trong đó các cảm xúc và tư tưởng được biểu đạt trong các thông điệp bằng ngôn ngữ hoặc phi ngôn ngữ. Giao tiếp của con người được diễn ra ở các mức độ trong con người intrapersonal, giữa con người với con người interpersonal và công cộng public. Giao tiếp của con người là một quá trình năng động, liên tục, bất thuận nghịch tác động qua lại và có tính chất ngữ cảnh. David K. Berlo, 1960. Giao tiếp trong con người xảy ra trong bản thân con người. Nó gồm các hoạt động như quá trình suy nghĩ tư duy, ra quyết định cá nhân và xác định khái niệm về bản thân. Giao tiếp giữa con người với con người là sự giao tiếp mà từ đó những người tham gia trao đổi các cảm xúc và tư tưởng với nhau. Các hình thức của giao tiếp giữa con người với con người là nói chuyện, phỏng vấn và thảo luận theo nhóm nhỏ. Giao tiếp công cộng có đặc điểm là một người nói gửi một thông điệp cho một đám đông thính giả. Giao tiếp công cộng có thể là trực tiếp như một thông điệp mặt đối mặt mà người nói chuyển tới một đám đông thính giả, hoặc là gián tiếp như một thông điệp nhận được thông qua một phương tiện truyền thông đại chúng như radio hay tivi. Giao tiếp của con người là một quá trình năng động bởi vì nó thưởng xuyên ở trong trạng thái thay đổi. Vì thái độ, kì vọng, cảm xúc và tình cảm của các cá nhân đang giao tiếp thay đổi, nên bản chất của sự giao tiếp của họ cũng thay đổi. Giao tiếp là một quá trình liên tục bởi vì nó không dừng lại. Dù là đang ngủ hay thức dậy, mỗi chúng ta đều đang chế biến các tư tưởng và thông tin qua các giấc mơ, sự suy nghĩ và biểu cảm của chúng ta. Bộ não của chúng ta còn hoạt động thì chúng ta còn đang giao tiếp. Giao tiếp là một quá trình bất thuận nghịch không đảo ngược được. Một thông điệp vừa mới được gửi đi là nó không thể bị huỷ bỏ. Điều vừa mới được hé miệng ra, một cái nhìn thoáng qua đầy ý nghĩa vừa mới được ghi nhận, hay một lời nói đầy tức giận vừa trót thốt ra… đều không thể xóa bỏ được. Chúng ta có thể xin lỗi hay phủ nhận, nhưng điều đó không trừ khử được những gì đã xảy ra. Giao tiếp là một quá trình tác động qua lại. Chúng ta thường xuyên tiếp xúc với người khác và với bản thân mình. Người khác phản ứng lại những lời nói và hành động của ta, và mỗi chúng ta cũng phản ứng lại lời nói và hành động của chính mình. Lần lượt, chúng ta phản ứng với những phản ứng đó. Như vậy là, một chu kì các hành động và phản ứng trở thành cơ sở cho sự giao tiếp của chúng ta. Quá trình giao tiếp đầy phức tạp này có tính chất ngữ cảnh, bởi vì một phần kinh nghiệm của cả nhân loại là rất lớn. Sự phức tạp của giao tiếp nói lên rằng, với tư cách là những người giao tiếp, chúng ta phát triển sự nhận thức và các kỹ xảo để hoạt động một cách có hiệu quả theo kinh nghiệm đó. Với tư cách là những người giao tiếp, chúng ta tham gia vào quá trình này của loài người cả trong lĩnh vực nghề nghiệp, lẫn cả trong lĩnh vực cuộc sống cá nhân của mình. Nội dung giao tiếp Con người trao đổi những gì với nhau trong quá trình giao tiếp? Giao tiếp có mặt trao đổi thông tin, thông điệp. Nội dung của các thông tin, thông điệp đó tạo thành nội dung giao tiếp. Giao tiếp của con người có những nội dung sau Các trí thức khoa học và đời sống. Chẳng hạn, giáo viên truyền thụ cho sinh viên những kiến thức chuyên môn; Cha mẹ bồi dưỡng cho trẻ thơ những hiểu biết về đời sống xã hội, tự nhiên… Các kỹ năng, kỹ xảo. Ví dụ, giáo viên dạy nghề truyền thụ cho học viên những kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp cụ thể trong quá trình đào tạo họ. Nội dung giao tiếp cũng có thể là con người bề ngoài, các đặc điểm tính cách của họ, cung cách hành vi của họ Chúng ta gặp bạn bè, người thân, chúng ta phấn khởi, vui mừng được trông thấy nhau, được ở bên nhau, “được thở hít chung một bầu không khí”. Công việc, nhiệm vụ, sự thực hiện và giải quyết các nhiệm vụ đó của cá nhân, nhóm hay tập thể cũng là một nội đung giao tiếp hàng ngày. Các cán bộ giảng dạy thảo luận về kế hoạch giảng dạy của năm học chẳng hạn, là một ví dụ về loại nội dung giao tiếp này. Quan hệ và quan hệ qua lại được thực hiện trong giao tiếp cũng là nội dung đặc biệt của giao tiếp, đem lại cho nó một bản sắc độc đáo, quyết định các phương tiện và cung cách giao tiếp. Toàn bộ hệ thống giao tiếp của cá nhân phụ thuộc vào chỗ các mối quan hệ qua lại đã được hình thành như thế nào. Tất cả những điều kể trên chỉ là những dấu hiệu đặc trưng riêng lẻ của nội dung giao tiếp. Các đề tài giao tiếp cụ thể ở mỗi người thì có nhiều và đề tài giao tiếp càng phong phú, đa dạng thì phạm vi giao tiếp của con người càng lớn, nhân cách của họ càng phong phú, súc tích. Các chức năng của giao tiếp. Trong cuộc sống con người, giao tiếp thực hiện các chức năng quan trọng. Đó là  Tổ chức hoạt động phối hợp cùng nhau của con người. Con người luôn luôn cần có sự giúp đỡ của người khác. Họ luôn luôn sống, hoạt động bên cạnh những người khác và cùng với những người khác. Ngay từ đầu đã bộc lộ mối liên hệ duy vật giữa con người với nhau. Mối liên hệ này là do những nhu cầu và phương thức sản xuất quyết định. “Từ lúc đầu loài người đã phải đấu tranh với tự nhiên để sống còn, như chống thú dữ, chống mưa nắng… Muốn thắng lợi thì mỗi người phải dựa vào lực lượng của số đông người, tức là của tập thể, của xã hội. Riêng lẻ từng cá nhân thì nhất định không thể thắng nổi tự nhiên, không sống được” Hồ Chí Minh. Không có giao tiếp thì con người không thể trao đổi kinh nghiệm, thống nhất mục đích, phương pháp hành động được, do đó hoạt động phối hợp cùng nhau cũng không thể có được.  Làm cho con người nhận thức được lẫn nhau Xem mục “Tri giác xã hội” ở Chương III.  Hình thành và phát triển các mối quan hệ liên nhân cách. Đây là chức năng quan trọng và phức tạp nhất. Sự phân tích chức năng này đòi hỏi phải có sự nghiên cứu phức hợp không phải chỉ của Tâm lý học, Xã hội học, Đạo đức học, mà cả Kinh tế học nữa. Các quan hệ đồng chí bạn bè, hay ngược lại, thù địch, căm thù được hình thành như thế nào? Cơ chế tâm lý của các hiện tượng đó ra sao. Vai trò của chúng trong sự phát triển của cá nhân như thế nào? – Hai chức năng trên được thực hiện như thế nào phụ thuộc Vào những mối quan hệ được hình thành giữa những người giao tiếp với nhau. Xem mục “Quan hệ liên nhân cách” ở Chương III. – Trong hành động giao tiếp trực tiếp thực tế thì tất cả chức năng kể trên được thể hiện một cách thống nhất. Đồng thời chúng được thể hiện thế này hay thế kia đối với mỗi người tham gia giao tiếp theo những cách khác nhau. Ví dụ, đối với người này thì hành động giao tiếp được bộc lộ như là sự truyền tin, đối với người khác lại bộc lộ trong chức năng giải toả xúc cảm căng thẳng. Các chức năng tổ chức hoạt động phối hợp, tri giác lẫn nhau và quan hệ liên nhân cách cũng không giống nhau đối với những người tham gia giao tiếp.  Đến đây chúng ta thấy rõ giao tiếp là một phương thức thể hiện của bản chất người, chính trong giao tiếp và chỉ thông qua giao tiếp bản chất người của chúng ta mới được thể hiện. Được hình thành trong quá trình lao động; giao tiếp là tiền đề tất yếu, quyết định sự nảy sinh –và phát triển của hình thái hoạt động tâm lý đặc trưng của con người – ý thức. Chức năng khởi đầu của ý thức con người là chức năng định hướng trong môi trường xung quanh con người, thiết lập mối liên hệ với các sự vật được lôi kéo và phạm vi hoạt động của họ, với những người khác. Cùng với ý thức, ngôn ngữ cũng là sản phẩm của giao tiếp, nó nảy sinh để đáp ứng nhu cầu trao đổi thông tin của con người nhằm mục đích thống nhất các nỗ lực của mình và tác động qua lại có hiệu quả nhất.  Giao tiếp là điều kiện tồn tại và là nhu cầu hữu cơ của con người. Khi mới ra đời, trẻ sơ sinh là một thực thể bất lực Nếu không được giao tiếp với người lớn, những người nuôi dưỡng, thì đứa trẻ không tồn tại được, càng không thể phát triển được. Nhu cầu giao tiếp là một trong những nhu cầu xã hội cơ bản và xuất hiện sớm nhất ở con người. Sự không thoả mãn nhủ cầu này sẽ gây nên ở con người – thuộc bất kì lứa tuổi nào “những trải nghiệm tiêu cực, những sự lo âu, chờ đợi một cái gì không hay xảy ra mặc dù không có gì đe doạ họ cả”. Con người là nhu cầu quan trọng nhất của con người. Con người sẽ mất mát nhiều, nếu họ không thể so sánh. mình với người khác, không thể trao đổi những ý nghĩ của mình với ai, không thể hướng tới một ai được. Căm thù một ai đó còn tốt hơn sống cô độc… Sự thờ ơ, lãnh đạm, cũng như thái độ dửng dưng có khác nào như chết vậy” R. Noibert. B. CÁC CÁCH TIẾP CẬN HIỆN TƯỢNG GIAO TIẾP Phần trình bày ở trên đã cho thấy giao tiếp là một quá trình phức tạp, nhiều mặt, nhiều mức độ của sự tác động qua lại về mặt tâm lý – xã hội giữa con người với con người. Trong giao tiếp có các mặt trao đổi thông tin, tác động lẫn nhau, nhận thức, hiểu biết lẫn nhau. Do đó có nhiều cách tiếp cận đối với hiện tượng giao tiếp. Trước hết giao tiếp là một vấn đề của Tâm tý học tâm lý học đại cương, tâm lý học xã hội. Trong quá trình giao tiếp, con người có sự tiếp xúc tâm lý thực sự với nhau, hình thành các mối quan hệ và quan hệ liên nhân cách với nhau. Giao tiếp là một nhu cầu xã hội cơ bản của con người, là điều kiện của sự tồn tại và phát triển con người như là một nhân cách. Mặt cơ bản nhất của giao tiếp chính là nhu cầu về sự quan tâm, sự thiện chí, sự hiểu biết, cảm thông, tán đồng… nghĩa là nhu cầu về sự tiếp xúc tình cảm với người khác. Tất cả những vấn đề đó là đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học. Ngôn ngữ là một phương tiện giao tiếp quan trọng đặc trưng của con người. Trong giao tiếp con người sử dụng cả ngôn ngữ nói lẫn ngôn ngữ viết và cả phương tiện tiếp cận ngôn ngữ giọng nói – paralanguage. Do vậy giao tiếp cũng được Ngôn ngữ học nghiên cứu, với các khía cạnh ngôn ngữ trong quá trình giao tiếp của con người. Trao đổi thông tin là một mặt không thể thiếu được của giao tiếp. Trong quá trình giao tiếp, con người gửi và nhận các thông điệp – thông tin với nhau. Các thông tin này được người gửi mã hoá và người nhận giải mã theo một hệ thống ký hiệu nhất định. Vì vậy, hiện tượng giao tiếp cũng được xem xét, khảo cứu từ góc độ của lý thuyết thông tin. Giao tiếp của con người diễn ra trong những môi trường văn hoá, trong những nền văn hoá nhất định. Trong mỗi nền văn hoá đó, con người sử dụng một thứ tiếng nhất định, một hệ thống các phương tiện phi ngôn ngữ nhất định để giao tiếp. Giữa các nền văn hoá khác nhau cũng có sự giao tiếp với nhau. Mặt khác, để phát triển những mối quan hệ giữa con người với con người một cách tốt đẹp, để sự giao tiếp của mỗi người có hiệu quả, cộng đồng cũng như mỗi cá nhân cũng cần phải có một văn hoá giao tiếp nhất định. Như thế, giao tiếp còn được tiếp cận từ góc độ Văn hoá học. Xã hội học cũng nghiên cứu hiện tượng giao tiếp ở góc độ đây là một hiện tượng mang bản chất xã hội và chức năng xã hội. Cuối cùng, giao tiếp cũng còn là đối tượng nghiên cứu của triết học, vì triết học là một khoa học bao trùm lên các khoa học, nó nghiên cứu các nguyên tắc tư tưởng, nguyên tắc phương pháp luận trong việc nghiên cữu giao tiếp như là một nhân tố của hoạt động sống của con người và một phương thức thể hiện của bản chất người. Tóm lại, giao tiếp không phải là đối tượng nghiên cứu của riêng một ngành khoa học nào cả. Với tính chất nhiều mặt, nhiều mức độ và phức tạp của mình, giao tiếp là một đối tượng khoa học liên ngành tâm lý học đại cương và tâm lý học xã hội, tâm lý học và xã hội học, tâm lý học và ngôn ngữ học, tâm lý học và lý thuyết thông tin III. CẤU TRÚC CỦA HÀNH VI GIAO TIẾP A. MÔ HÌNH GIAO TIẾP Trong quá trình giao tiếp phức tạp của con người, để có thể nhận dạng được các bộ phận cấu thành của nó là vấn đề không đơn giản. Ngoài ra chúng ta còn phải hiểu cả sự ăn khớp những thành tố đó. Có một cách thông dụng để làm việc đó là xem xét quá trình giao tiếp thông qua một mô hình mà nó có thể minh hoạ được các nhân tố khác nhau có liên quan nhau như thế nào. Bất cứ một mô hình nào cũng phải đơn giản, hơn nữa, giao tiếp không có sự bắt đầu và kết thúc một cách rõ ràng mà một mô hình có thể gợi nên. Tuy vậy, mặc dù có những giới hạn này, các mô hình vẫn có thể giúp chúng ta thấy được các thành tố của giao tiếp một cách tổng quan, để có thể phân tích và hiểu được chúng. Mặc dầu có nhiều cách mô tả hành vi giao tiếp, chúng tôi chọn 3 cách để minh hoạ cho quá trình giao tiếp mô hình tuyến tính, mô hình tác động qua lại và mô hình giao dịch. 1. Mô hình tuyến tính về giao tiếp Công trình lý thuyết ban đầu về giao tiếp bằng ngôn ngữ đã được thở ra từ các nhà tu từ học La Mã và Hi Lạp cổ đại những người quan tâm đến việc đào tạo các nhà hùng biện một cách đúng đắn. Vì lý do này, các học thuyết ban đầu về giao tiếp đã nhấn mạnh đến vai trò của diễn giả trước quần chúng, chúng phản ánh cái có thể được gọi là quan điểm một chiều về giao tiếp, cho rằng một người có thể thực hiện những hành động nhất định theo một trình tự nhất định trong khi phát biểu và gợi ra những câu trả lời nhất định theo mong muốn từ phía thính giả. Điều này cớ thể được biểu đạt là mô hình tuyến tính một chiều về giao tiếp xem Theo mô hình này thì diễn giả mã hoá một thông điệp và gửi nó tới người nghe thông qua một hay nhiều kênh giác quan. Người nghe, sau đó, tiếp nhận và giải mã thông điệp này. Ví dụ, sau khi bạn mua một cái máy tính, bạn nghe thông điệp ghi ở trong băng của nhà sản xuất. Đĩa này giải thích cách nhét đĩa điều hành hệ thống và bật máy tính như thế nào. Khi bạn làm theo hướng dẫn đó và máy tính hoạt động thì quá trình giao tiếp đã thành công. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng mặc dù thường là cần thiết, nhưng việc giao tiếp một chiều có hiệu quả hạn chế. Để minh hoạ điều này, ta hãy xét một ví dụ khác. Hùng người nói nói rằng “Xin hãy đặt quyển sách lên bàn”. Sau đó anh ta quay lại và ra khỏi phòng. Hoa người nghe có một giá sách trước mặt, nhưng không đoán chắc được là cuốn sách nào cần phải đặt lên bàn. Trong ví dụ này, Hùng đang tạo ra một sự thừa nhận khá thông thường. Rất nhiều người cho rằng nếu họ nói hoặc viết cái gì đó thì việc gửi thông điệp này là toàn bộ sự giao tiếp. Nhưng sự ngộ nhận theo một nguồn này đã “bỏ qua vai trò quan trọng của người nghe trong việc phúc đáp và do đó tác động đến người gửi và thông điệp để cung cấp sự phản hồi. Sự phản hồi này có thể cho phép người gửi kiểm tra để biết liệu cái mệnh lệnh có được hiểu không, cách giải quyết có được chấp nhận không, thông điệp có rõ ràng không, kênh có được mở không” Roy Berco, Andrew Wolvin and Ray Curtis, 1986. Bất cứ khi nào có thể thì những người giao tiếp cũng nên cố gắng giao tác với nhau để có thể phát hiện ra sự giao tiếp của họ thực sự có hiệu quả như thế nào. Ví dụ sự phân tích của Hùng về số hiệu của những cuốn sách sẵn có để chọn có lẽ đã dẫn đến kết luận rằng nó cần phải cụ thể hơn. Hơn nữa, nó có lẽ đã một câu hỏi như “Bạn có biết tôi muốn cuốn sách nào không?”. Hoặc anh ta có thể đợi cho đến khi Hoa đặt cuốn sách xuống để thấy rõ liệu cô ấy đã hiểu anh thưa? Nếu cô ấy không hiểu thì sau đó anh ta có thể sửa lỗi của mình bằng cách nêu cụ thể hơn trong cách hướng dẫn của mình. Khi không thể mở ra mối giao tác để phát hiện như phải có, chẳng hạn đối với người phát tin trên đài phát thanh hoặc vô tuyến, phóng viên báo chí và tác giả các cuốn sách, thì cần phải lưu ý đặc biệt đến việc phân tích trước về thính giả để người giao tiếp / nguồn có thể cố gắng sử dụng ngôn ngữ thích hợp nhất, cũng như làm rõ các ví dụ, làm sáng sủa các cấu trúc để tránh “tiếng ồn” trong giao tiếp. 2. Mô hình tác động qua lại về giao tiếp Mô hình tuyến tính về giao tiếp không tính đến mọi biến thiên, mọi đổi thay trong quá trình giao tiếp. Dĩ nhiên đây là một mô hình “người nói – người nghe” đơn giản. Vì nguyên nhân này, một số nhà khoa học ban đầu về hành vi, chịu ảnh hưởng của các nghiên cứu trong tâm lý học, đã mở rộng ý niệm về quá trình này thành cái mô tả sự liên hệ qua lại lớn hơn và chứng minh động lực, bản chất đang diễn ra của giao tiếp. Mô hình tác động qua lại về giao tiếp được trình bày ở Hình 2. Trong mô hình này thì nguồn mã hoá thông điệp và gửi nó tới người nhận thông qua một hay nhiều kênh giác quan. Người nhận tiếp nhận và giải mã thông điệp này như trong giao tiếp tuyến tính, nhưng sau đó có sự khác biệt lớn người nhận mã hoá phản hồi một phản ứng hay các phản ứng và gửi phản hồi này tới nguồn, vậy là quá trình trở thành hai chiều. Rồi sau đó, nguồn giải mã thông điệp phản hồi căn cứ theo thông điệp gốc đã được gửi và phản hồi đã được nhận, sau đó nguồn mã hoá một thông điệp mới thích ứng với phản hồi nhận được sự thích ứng. Ví dụ Hùng nói với Hoa “Xin hãy đưa cho tôi cuốn sách”. Hoa nhìn vào chồng sách ở trước mặt cô ta và nói “Quyển nào?” phản hồi. Hùng trả lời “Quyển đỏ trên đỉnh chồng sách” sự thích ứng. Quan điểm này về giao tiếp đã tính đến những ảnh hưởng của nhiều phúc đáp của người nhận. Quan điểm này cho rằng một quá trình, trong chừng mực nào đó, là vòng quanh gửi và nhận, gửi và nhận và cứ như thế tiếp tục… 3. Mô hình giao dịch về giao tiếp Bây giờ, một số nhà chuyên môn cho rằng việc giao tiếp không thể đơn giản quy rút lại thành một quá trình “kích thích và phản ứng” như là các mô hình tuyến tính và tác động qua lại đưa ra. Quan điểm này ủng hộ ý kiến cho rằng giao tiếp là một sự giao dịch mà trong đó nguồn và người nhận đóng những vai trò có thể hoán đổi được cho nhau trong suốt hoạt động giao tiếp. Như vậy là không dễ dàng xây dựng nên một mô hình thật rõ ràng, dứt khoát của quá trình Hình 3 minh hoạ một mô hình giao dịch về giao tiếp. Trong mô hình này, tiêu biểu cho những gì mà chúng ta biết cho đến giờ về giao tiếp là những thay đổi được phát hiện đồng thời trong cả hai người giao tiếp. Người giao tiếp A mã hoá một thông điệp và gửi nó đi. Người giao tiếp B, sau đó, mã hoá phản hôi gửi tới người giao tiếp A, người giải mã nó. Nhưng những bước này không phải là độc chiếm lẫn nhau vì việc mã hoá và giải mã có thể xảy ra đồng thời. Là những người nói, chúng ta có thể gửi một thông điệp phản hồi phi ngôn ngữ từ người nghe của chúng ta. Sự mã hoá và giải mã này có thể xảy ra liên tiếp trong suốt quá trình giao tiếp. Bởi vì chúng ta có thể gửi và nhận các thông điệp một lúc, nên mô hình này là đa hướng. Hãy chú ý rằng, một người không được gắn nhãn như là nguồn và người kia như là người nhận, thay vào đó cả hai người giao tiếp khoác lấy vai trò của người gửi và người nhận trong sự giao dịch chuyển đổi vai trò. Như vậy, mô hình này gần như đại diện cho việc giao tiếp đồng thời. Hùng nguồn nói “Anh yêu em”; trong khi Hùng người nhận thì nhìn Hoa đi khỏi khi anh nói với cô ấy; trong khi Hoa nguồn đi khỏi chỗ Hùng; trong khi Hoa người nhận nghe thấy “Anh yêu em” trong khi Hoa nguồn dừng lại, quay đi, cau mày và nói “Em không chắc anh như vậy”; trong khi Hoa người nhận nhìn Hùng gật đầu và đi lại chỗ cô ta khi cô ta nói; trong khi Hùng người nhận nghe thấy những lời cô ta; trong khi Hùng nguồn gật đầu và đi lại chỗ cô ta khi cô ta nói. * So sánh các mô hình So sánh 3 mô hình này trong hành động sẽ cho ta hiểu chúng khác nhau như thế nào. Hãy bắt đầu với kịch bản sau Một người điều hành các quan hệ quần chúng của một công ty lớn trình bày một bài phát biểu trên vô tuyến từ phòng quay thông tin đại chúng của trụ sở chính, đến các nhân viên maketing ở các văn phòng khác nhau trên khắp cả nước. Đây là một ví dụ của mô hình về giao tiếp tuyến tính. Tiếp đến, người điều hành cũng trình bày giống như vậy tại phòng của ban lãnh đạo công ty. Cô ta nói chính xác theo bản thảo mà cô ta đã chuẩn bị, chẳng phải mất công tìm bất kì một phản hồi nào. Rồi theo bài phát biểu cô ta liệu có câu hỏi nào không? Một trong các thành viên của ban lãnh đạo hỏi một câu hỏi và câu đó được trả lời. Điều này chứng minh mô hình tác động qua lại về giao tiếp. Sau đó nhân viên bán hàng bước vào phòng. Người điều hành các quan hệ quần chúng bắt đầu nói. Khi cô ấy nói thì một người bán hàng hỏi một câu hỏi. Trong lúc câu hỏi đang được nêu ra, người nói gật đầu. Cô ấy, sau đó, đồng ý bằng lời với người bán hàng. Trong lúc chuyện này xảy ra, người bán hàng cũng gật đầu, chỉ báo rằng anh ta đã hiểu điều vừa được giải thích và nói “Tôi đã hiểu”. Đây là một ví dụ về một mô hình giao dịch hoán chuyển vai trò của giao tiếp. B. CÁC THÀNH TỐ CỦA HÀNH VI GIAO TIẾP Để hiểu rõ quá trình giao tiếp phức tạp, ta hãy xem xét chi tiết các thành tố của hành vi giao tiếp. 1. “Người giao tiếp / nguồn” và thông điệp Như được minh hoạ ở Hình 4 tr. 31, quá trình giao tiếp bắt đầu khi “người giao tiếp / nguồn” bị kích thích một cách có ý thức hay không có ý thức bởi một sự việc, một khách thể hay một ý tưởng nào đó. Xuất hiện nhu cầu gửi thông điệp đi sau khi đã dùng trí nhớ để tìm ra thứ “tiếng” ngôn ngữ hay phi ngôn ngữ thích hợp để mã hoá thông điệp Các nhân tố như sự tri giác, các kỳ vọng, thái độ và trạng thái cơ thể đều có ảnh hưởng đến việc gửi thông điệp. Quá trình giao tiếp rất phức tạp, bởi vì nó mang tính chất ký hiệu, sử dụng một thứ “ngôn ngữ” nào đó để đại diện cho các khách thể và ý tưởng mà chúng ta đang giao tiếp. Không may, các ký hiệu có thể không được hiểu. Ví dụ, một kỹ sư hàng không phải lựa chọn thứ “tiếng” của mình một cách cẩn thận để nói cho một ai đó không am hiểu về nguyên tắc của vận tốc gió. Các từ ngữ quá chuyên sâu về mặt kỹ thuật có thể làm rối trí người giao tiếp – người nhận và làm cho họ không hiểu được. 2. Kênh Các thành tố của giao tiếp theo Berko, Wolvin và Wolvin Người giao tiếp / nguồn Người giao tiếp / người nhận 1. Những cảm nhận do ý tưởng 1. Những cảm nhận do kích thích hay nhu cầu giao tiếp gây nên hay nhu cầu giao tiếp gây nên 2. Lựa chọn cách truyền thông 2. Tiếp nhận ký hiệu mã dưới - Xem thêm - Ngày đăng 24/12/2014, 2202 1 VỊ TRÍ, TÍNH CHẤT, MỤC TIÊU VÀ YÊU CẦU CỦA MÔN Vị trí và tinh chất của môn họcKhoa học giao tiếp là môn học thuộc khối kiến thức giáo dục đại cương trong chương trình đào tạo SV bậc Cao đẳng, được giảng day ở học kì đầu tiên với thời lượng 45 tiết học. Khoa học giao tiếp vừa là môn học lý thuyết, vừa là môn học thực hành. Trong quá trình học, sinh viên được trang bị những kiến thức cơ bản về giao tiếp, ứng xử, đồng thời thực hành để rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức môn học vào các tình huống giao tiếp hằng ngày cũng như trong hoạt động nghề nghiệp sau Mục tiêu của môn học Về kiến thức Sinh viên lãnh hội được những kiến thức cơ bản nhất về giao tiếpvà ứng xử theo truyền thống dân tộc và theo thông lệ quốc tế, phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn hiện nay. Về kỹ năng Hình thành ở sinh viên các kỹ năng cơ bản sau oKỹ năng phân tích, đánh giá các quan hệ giao tiếp một cách hợp lý, trên cơ sở đó sinh viên có thể hoàn thiện hoạt động giao tiếp của mìnhoKỹ năng sử dụng tối ưu các phương tiện giao tiếp, bao gồm phương tiện ngôn ngữ và các phương tiện phi ngôn ngữoKỹ năng thiết lập, phát triển, củng cố mối quan hệ cần thiết trong cuộc sống cũng như trong hoạt động nghề nghiệp trong tương lai Về thái độ Sinh viên thấy được tầm quan trọng của việc trở thành một người giao tiếp giỏi, trên cơ sở đó hình thành ở các em thái độ đúng đắn đối với môn học cũng như với việc rèn luyện các kỹ năng giao tiếp và phẩm chất nghề nghiệp . Yêu cầu của môn học Học tập, nghiên cứu môn học kỹ năng giao tiếp, sinh viên cần Phân tích được bản chất, các khía cạnh của quá trình giao tiếp truyền thông, nhận thức và ảnh hưởng tác động qua lại trong giao tiếp Ứng dụng được những nét riêng, những phong tục, tập quán của dân tộc cũng như những nguyên tắc, những thông lệ quốc tế trong giao tiếp, ứng xử hiện đại Ứng dụng được những nguyên tắc, những lý luận cơ bản về giao tiếp. Tích cực, chủ động trong học tập, đặc biệt là trong giờ học thực hành để hình thành các kỹ năng giao tiếp, đồng thời không ngừng trau dồi, rèn luyện chúng cả trong đời sống thường nhật để nâng chúng lên thành nghệ thuật giao ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MÔN Đối tượng nghiên cứu của môn học giao tiếp Môn khoa học giao tiếp nghiên cứu những vấn đề cơ bản sau đây Bản chất, đặc điểm của quá trình giao tiếp Các loại hình giao tiếp và đặc trưng của chúng Các kỹ năng giao tiếp Hiệu quả và những ảnh hưởng đến hiệu quả của quá trình giao tiếp. Các hiện tượng tâm lý và tâm lý – xã hội diễn ra trong giao tiếp, văn hóa giao tiếp, ứng xử của con người trong xã hội hiện đại trong cuộc sống cũng như trong công Phương pháp học tập môn học nhập môn khoa học giao tiếp Sinh viên có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, sau đây là phương pháp cơ Phương pháp duy vật biện chứng Hai vấn đề khi phân tích, lý giải một hành vi giao tiếp cụ thể Thứ nhất, không có thế lực siêu tự nhiên nào mà chính là hiện thực xã hội, các quan hệ xã hội, quan hệ kinh tế quyết định hành vi giao tiếp của con người. Hành vi giao tiếp của con người chịu sự tác động của nhiều yếu tố, như hoàn cảnh, tình huống, tâm lý, phong tục, tập quán, tuyền thống Các yếu tố tâm lý như nhu cầu, động cơ, mục đích của chủ thể giao tiếp quy định hành vi giao tiếp của họ. Thứ hai, mỗi hành vi giao tiếp chịu sự tác động, chi phối của nhiều yếu tố khác nhau, vì vậy không được tách rời, cô lập hành vi giao tiếp mà phải đặt nó trong mối quan hệ chặt chẽ, trong sự ảnh hưởng tác động qua lại với các yếu tố đó mới có thể lý giải nó một cách chính xác và đầy Phương pháp nghiên cứu tài liệu Hiện nay có rất nhiều công trình nghiên cứu về giao tiếp đã được công bố, in ấn thành sách hoặc được phổ biến trên những phương tiện thông tin đại chúng khác. Điều này cho thấy, giao tiếp, ứng xử không chỉ là vấn đề hấp dẫn, thiết thực, được nhiều người quan tâm, mà còn là vấn đề rất phức tạp. Trong phạm vi giáo trình này, tác giả không thể trình bày đầy đủ tất cả các tri thức của nhân loại về giao tiếp, ứng xử. Vì vậy, sinh viên cần sưu tầm, tham khảo thêm các tài liệu khác để hoàn thiện hơn nữa vốn hiểu biết của Phương pháp quan sát Khoa học giao tiếp là môn học về cuộc sống đời thường đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ xung quanh chúng ta, về quan hệ người – người,về ứng xử giữa con người. chính vì vậy, học tập môn khoa học giao tiếp không chỉ là học tập qua sách vở mà còn phải học tập trong cuộc sống, thông qua cuộc sống. Nghĩa là chúng ta phải chú ý quan sát lời nói, hành vi, cử chỉ, điệu bộ, thái độ, cách ứng xử, cách ăn mặc… của những người xung quanh và cả của bản thân tự quan sát, phân tích, đánh giá, so sánh chúng với những gì tiếp thu được qua sách vở và tự rút ra cho mình những kết luận cần thiết. Đây cũng chính là một trong những điều kiện cơ bản để chúng ta để có thể nhanh chóng tiến bộ và thành công trong giao . KHÁI QUÁT NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA MÔN HỌC Có thể chia những nội dung cơ bản của môn học khoa học giao tiếp thành hai phần phần chung và phần riêng. Phần chung giới thiệu những kiến thức lý luận chung về giao tiếp như khái niệm, vai trò, chức năng, cấu trúc của giao tiếp, các phương tiện giao tiếp Phần lý luận trình bày những lý thuyết,những nguyên tắc, những đặc điểm chung làm cơ sở cho phần rèn kỹ năng. Còn phần kỹ năng giới thiệu quy trình, cách thức, phương pháp để tổ chức và tiến hành một cuộc tiếp xúc có hiệu quả. Để giúp sinh viên đánh giá kết quả học tập của mình, đồng thời giúp củng cố kiến thức và rèn luyện kỹ năng, ở đầu mỗi chương đều có mục tiêu và nội dung tóm tắt của chương, ở cuối mỗi chương có phần câu hỏi và bài tập tình huống để thực hành. Ngoài ra, cuối giáo trình còn có phần ôn tập, trong đó hướng dẫn giải hoặc đưa ra đáp án bài tập tình huống và giới thiệu một số trắc nhiệm giao tiếp. Để các bài tập tình huống phát huy được hiệu quả tối đa, sinh viên chỉ nên xem phần hướng dẫn ở cuối sách sau khi đã giải thử những bài tập này. Hơn nữa, mỗi tình huống đều có thể có nhiều phương án giải quyết, phần hướng dẫn chỉ nêu phương án có tính chất gợi ý.. Giáo trình Khoa học Giao tiếp MỞ ĐẦU 1 VỊ TRÍ, TÍNH CHẤT, MỤC TIÊU VÀ YÊU CẦU CỦA MÔN HỌC Vị trí và tinh chất của môn học Khoa học giao tiếp là môn học thuộc khối kiến thức giáo dục đại cương trong chương trình đào tạo SV bậc Cao đẳng, được giảng day ở học kì đầu tiên với thời lượng 45 tiết học. Khoa học giao tiếp vừa là môn học lý thuyết, vừa là môn học thực hành. Trong quá trình học, sinh viên được trang bị những kiến thức cơ bản về giao tiếp, ứng xử, đồng thời thực hành để rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức môn học vào các tình huống giao tiếp hằng ngày cũng như trong hoạt động nghề nghiệp sau này. Mục tiêu của môn học - Về kiến thức Sinh viên lãnh hội được những kiến thức cơ bản nhất về giao tiếpvà ứng xử theo truyền thống dân tộc và theo thông lệ quốc tế, phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay. - Về kỹ năng Hình thành ở sinh viên các kỹ năng cơ bản sau o Kỹ năng phân tích, đánh giá các quan hệ giao tiếp một cách hợp lý, trên cơ sở đó sinh viên có thể hoàn thiện hoạt động giao tiếp của mình o Kỹ năng sử dụng tối ưu các phương tiện giao tiếp, bao gồm phương tiện ngôn ngữ và các phương tiện phi ngôn ngữ o Kỹ năng thiết lập, phát triển, củng cố mối quan hệ cần thiết trong cuộc sống cũng như trong hoạt động nghề nghiệp trong tương lai - Về thái độ Sinh viên thấy được tầm quan trọng của việc trở thành một người giao tiếp giỏi, trên cơ sở đó hình thành ở các em thái độ đúng đắn đối với môn học cũng như với việc rèn luyện các kỹ năng giao tiếp và phẩm chất nghề nghiệp . Yêu cầu của môn học Học tập, nghiên cứu môn học kỹ năng giao tiếp, sinh viên cần - Phân tích được bản chất, các khía cạnh của quá trình giao tiếp truyền thông, nhận thức và ảnh hưởng tác động qua lại trong giao tiếp - Ứng dụng được những nét riêng, những phong tục, tập quán của dân tộc cũng như những nguyên tắc, những thông lệ quốc tế trong giao tiếp, ứng xử hiện đại - Ứng dụng được những nguyên tắc, những lý luận cơ bản về giao tiếp. - Tích cực, chủ động trong học tập, đặc biệt là trong giờ học thực hành để hình thành các kỹ năng giao tiếp, đồng thời không ngừng trau dồi, rèn luyện chúng cả trong đời sống thường nhật để nâng chúng lên thành nghệ thuật giao tiếp. 2 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MÔN HỌC Đối tượng nghiên cứu của môn học giao tiếp Môn khoa học giao tiếp nghiên cứu những vấn đề cơ bản sau đây - Bản chất, đặc điểm của quá trình giao tiếp - Các loại hình giao tiếp và đặc trưng của chúng - Các kỹ năng giao tiếp - Hiệu quả và những ảnh hưởng đến hiệu quả của quá trình giao tiếp. - Các hiện tượng tâm lý và tâm lý – xã hội diễn ra trong giao tiếp, văn hóa giao tiếp, ứng xử của con người trong xã hội hiện đại trong cuộc sống cũng như trong công việc. 1 Giáo trình Khoa học Giao tiếp Phương pháp học tập môn học nhập môn khoa học giao tiếp Sinh viên có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, sau đây là phương pháp cơ bản Phương pháp duy vật biện chứng Hai vấn đề khi phân tích, lý giải một hành vi giao tiếp cụ thể - Thứ nhất, không có thế lực siêu tự nhiên nào mà chính là hiện thực xã hội, các quan hệ xã hội, quan hệ kinh tế quyết định hành vi giao tiếp của con người. Hành vi giao tiếp của con người chịu sự tác động của nhiều yếu tố, như hoàn cảnh, tình huống, tâm lý, phong tục, tập quán, tuyền thống Các yếu tố tâm lý như nhu cầu, động cơ, mục đích của chủ thể giao tiếp quy định hành vi giao tiếp của họ. - Thứ hai, mỗi hành vi giao tiếp chịu sự tác động, chi phối của nhiều yếu tố khác nhau, vì vậy không được tách rời, cô lập hành vi giao tiếp mà phải đặt nó trong mối quan hệ chặt chẽ, trong sự ảnh hưởng tác động qua lại với các yếu tố đó mới có thể lý giải nó một cách chính xác và đầy đủ. Phương pháp nghiên cứu tài liệu Hiện nay có rất nhiều công trình nghiên cứu về giao tiếp đã được công bố, in ấn thành sách hoặc được phổ biến trên những phương tiện thông tin đại chúng khác. Điều này cho thấy, giao tiếp, ứng xử không chỉ là vấn đề hấp dẫn, thiết thực, được nhiều người quan tâm, mà còn là vấn đề rất phức tạp. Trong phạm vi giáo trình này, tác giả không thể trình bày đầy đủ tất cả các tri thức của nhân loại về giao tiếp, ứng xử. Vì vậy, sinh viên cần sưu tầm, tham khảo thêm các tài liệu khác để hoàn thiện hơn nữa vốn hiểu biết của mình. Phương pháp quan sát Khoa học giao tiếp là môn học về cuộc sống đời thường đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ xung quanh chúng ta, về quan hệ người – người,về ứng xử giữa con người. chính vì vậy, học tập môn khoa học giao tiếp không chỉ là học tập qua sách vở mà còn phải học tập trong cuộc sống, thông qua cuộc sống. Nghĩa là chúng ta phải chú ý quan sát lời nói, hành vi, cử chỉ, điệu bộ, thái độ, cách ứng xử, cách ăn mặc… của những người xung quanh và cả của bản thân tự quan sát, phân tích, đánh giá, so sánh chúng với những gì tiếp thu được qua sách vở và tự rút ra cho mình những kết luận cần thiết. Đây cũng chính là một trong những điều kiện cơ bản để chúng ta để có thể nhanh chóng tiến bộ và thành công trong giao tiếp. 3 . KHÁI QUÁT NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA MÔN HỌC Có thể chia những nội dung cơ bản của môn học khoa học giao tiếp thành hai phần phần chung và phần riêng. Phần chung giới thiệu những kiến thức lý luận chung về giao tiếp như khái niệm, vai trò, chức năng, cấu trúc của giao tiếp, các phương tiện giao tiếp Phần lý luận trình bày những lý thuyết,những nguyên tắc, những đặc điểm chung làm cơ sở cho phần rèn kỹ năng. Còn phần kỹ năng giới thiệu quy trình, cách thức, phương pháp để tổ chức và tiến hành một cuộc tiếp xúc có hiệu quả. Để giúp sinh viên đánh giá kết quả học tập của mình, đồng thời giúp củng cố kiến thức và rèn luyện kỹ năng, ở đầu mỗi chương đều có mục tiêu và nội dung tóm tắt của chương, ở cuối mỗi chương có phần câu hỏi và bài tập tình huống để thực hành. Ngoài ra, cuối giáo trình còn có phần ôn tập, trong đó hướng dẫn giải hoặc đưa ra đáp án bài tập tình huống và giới thiệu một số trắc nhiệm giao tiếp. Để các bài tập tình huống phát huy được hiệu quả tối đa, sinh viên chỉ nên xem phần hướng dẫn ở cuối sách sau khi đã giải thử những bài tập này. Hơn nữa, mỗi tình huống đều có thể có nhiều phương án giải quyết, phần hướng dẫn chỉ nêu phương án có tính chất gợi ý 2 Giáo trình Khoa học Giao tiếp Những người thực hiện. Chương 1 KHOA HỌC GIAO TIẾP VÀ HÀNH VI GIAO TIẾP MỤC TIÊU - Sinh viên phải phát biểu được các khái niệm giao tiếp, hành vi giao tiếp và nêu được đặc điểm của từng thành tố của hành vi giao tiếp. - Sinh viên thiết lập được cho bản thân một quan niệm giao tiếp đúng đắn, một thái độ tích cực với hoạt động giao tiếp. NỘI DUNG CHÍNH Chương I gồm 3 bài Bài 1 Giao tiếp và việc nghiên cứu vấn đề giao tiếp Bài 2 Các cách tiếp cận hiện tương giao tiếp Bài 3 Cấu trúc của hành vi giao tiếp Với 3 bài này, chương I truyền tải những nội dung chính sau - Giao tiếp là hoạt động xác lập và vận hành các mối quan hệ xã hội giữa con người với con người hoặc giữa con người và các yếu tố xã hội khác, nhằm thỏa mãn những nhu cầu nhất định. - Giao tiếp được thể hiện cụ thể thông qua các hành vi. Hành vi giao tiếp là một chuỗi hành động được thúc đẩy bởi mục đích muốn thỏa mãn một nhu cầu nào đó - Các thành tố của hành vi giao tiếp là các chủ thể giao tiếp, thông điệp, kênh truyền, bối cảnh giao tiếp và yếu tố nhiễu - Có 3 cách tiếp cận cơ bản để hiểu được bản chất của một hành vi giao tiếp tiếp cận từ yếu tố tâm lý, tiếp cận từ yếu tố văn hóa, xã hội, tiếp cận từ yếu tố triết học Bài 1 GIAO TIẾP VÀ VIỆC NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ GIAO TIẾP GIAO TIẾP Giao tiếp là gì ? Sự tồn tại và phát triển của mỗi con người luôn gắn liền với sự tồn tại và phát triển của những cộng đồng xã hội nhất định. Không ai có thể sống, hoạt động ngoài gia đình, bạn bè, địa phương, tập thể, dân tộc, tức là ngoài xã hội. Người La Tinh nói rằng “Ai có thể một mình thì người đó hoặc là thánh nhân, hoặc là quỉ sứ” Trong quá trình sống và hoạt động, giữa chúng ta với người khác luôn tồn tại nhiều mối quan hệ. Đó là mối quan hệ dòng họ, huyết thống, quan hệ họ hàng, thôn xóm, quan hệ hành chính – công việc, quan hệ bạn bè… Trong các mối quan hệ đó thì chỉ một số ít là có sẵn ngay từ khi chúng ta cất tiếng khóc chào đời quan hệ huyết thống, họ hàng, còn đa số các quan hệ còn lại chủ yếu được hình thành, phát triển trong quá trình chúng ta sống và hoạt động trong cộng đồng xã hội, thông qua các hình thức tiếp xúc, gặp gỡ, liên lạc đa dạng với người khác mà chúng ta thường gọi là giao tiếp. 3 Giáo trình Khoa học Giao tiếp Vậy, giao tiếp là gì? Giao tiếp là hoạt động xác lập và vận hành các mối quan hệ xã hội giữa con người với con người hoặc giữa con người và các yếu tố xã hội khác, nhằm thỏa mãn những nhu cầu nhất định. Giao tiếp bao hàm hàng loạt mục tiêu ý nghĩa như trao đổi thông tin, xây dựng hoạt động chiến lược phối hợp, tự nhận biết mình và tìm hiểu người khác. Tương ứng với các yếu tố trên, giao tiếp có 3 khía cạnh chính giao lưu, tác động qua lại và tri giác. Các mức độ giao tiếp Hình Các mức độ giao tiếp Phân loại giao tiếp a. Phân loại theo phương tiện giao tiếp * Giao tiếp bằng ngôn từ Giao tiếp bằng lời nói và chữ viết * Giao tiếp phi ngôn từ Giao tiếp bằng các hành vi, biểu tượng, sắc thái, đồ vật… biểu hiện thái độ, tâm lí, tình cảm. b. Phân loại theo khoảng cách * Giao tiếp trực tiếp là sự giao tiếp mặt giáp mặt giũa các chủ thể giao tiếp, trong cùng một không gian. Đây là loại hình giao tiếp phổ biến nhất trong đời sống con người. * Giao tiếp gián tiếp Là sự giao tiếp trong đó các chủ thể tiếp xúc với nhau thông qua người khác hoặc thông qua các phương tiện truyền tin. c. Phân loại theo qui cách * Giao tiếp chính thức Là sự giao tiếp mang tính chất công vụ, theo chức trách, quy định, thể chế. Ví dụ hội họp, mít tinh, giờ học… Trong giao tiếp chính thức, vấn đề cần trao đổi, bàn bạc thường được xác định trước, vì vậy thông tin thường có tính chính xác cao. * Giao tiếp không chính thức Là sự giao tiếp mang tính cá nhân, không câu nệ vào thể thức, chủ yếu dựa trên sự hiểu biết về nhau giữa các chủ thể. Ví dụ Bạn bè, đồng nghiệp… trò chuyện, hoặc giao tiếp thông qua người thứ ba - “tam sao thất bản”. Ưu điểm của giao tiếp không chính thức là gợi không khí thân tình, cởi mở và chúng ta có thể tự do trao đổi những vấn đề mà chúng ta quan tâm. 4 Giáo trình Khoa học Giao tiếp Trong cuộc sống, chúng ta cần biết sử dụng kết hợp giao tiếp không chính thức với giao tiếp chính thức để tạo không khí thân mật, cởi mở và gần gũi nhau, tạo điều kiện thuận lợi cho giao tiếp chính thức đạt kết quả. Chức năng của giao tiếp Các nhà khoa học đã có những nhìn nhận khác nhau về chức năng của giao tiếp. Verderber 1990 cho rằng giao tiếp có ba chức năng cơ bản. * Chức năng tâm lí Giao tiếp đáp ứng các nhu cầu tâm lý, tinh thần con người * Chức năng xã hội Giao tiếp để phát triển và thực hiện các mối quan hệ xã hội. * Chức năng lập quyết định Giao tiếp để trao đổi, đánh giá thông tin và tạo ảnh hưởng đối với người khác Trong khoa học giao tiếp hiện nay, có thể xác định chức năng giao tiếp là. * Chức năng thông tin Muốn thông tin và truyền tin, người ta thường thông qua giao tiếp. Giao tiếp làm cho thông tin được truyền từ người này sang người khác, quốc gia này sang quốc gia khác, thế hệ này sang thế hệ khác, tạo thành kho tàng tri thức khổng lồ cho xã hội loài người. * Chức năng giải tỏa cảm xúc Giao tiếp là cho các cảm xúc tích cực của con người được nhân lên, nhưng giao tiếp lại làm cho các cảm xúc tíêu cực được vơi đi rất nhiều. mang lại sự cân bằng tâm lý và tâm lý tích cực cho con người. Nếu không có giao tiếp, sẽ không có cảm xúc, không phát triển tâm lý. * Chức năng thiết lập mối quan hệ liên nhân cách Trong cuộc sống, con người cần rất nhiều mối quan hệ. Các mối quan hệ chủ yếu được thiết lập trên cơ sở hoạt động giao tiếp. Nếu không giao tiếp sẽ không có mối quan hệ nào. Ngược lại giao tiếp nhiều sẽ có nhiều mối quan hệ, “người năng chào năng thân” *Chức năng tổ chức và phối phợp hoạt động Khoa học kỹ thuật của con người phát triển đến mức độ cao, hoạt động của con người đa dạng và phức tạp, con người hải phối hợp hoạt độn, do đó con người phải giao tiếp để bàn bạc để thống nhất về mục tiêu, kế hoạch và phương thức hoạt động. VAI TRÒ CỦA GIAO TIẾP Giao tiếp có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội và đời sống con người Giao tiếp là tiền đề cho sự phát triển của sức khỏe * Giao tiếp kém, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, đến cuộc sống - Người không có kỹ năng giao tiếp tốt không thổ lộ được tâm trạng, không có người hiểu nổi tâm tình của mình, không chia sẻ tâm tư, tâm trạng, tình cảm với người xung quanh nên dễ rơi vào trạng thái cô đơn dù sống ngay giữa đám đông. - Sự cô đơn, biệt lập làm cho con người dễ bị suy sụp về thể chất, tinh thần, dễ mắc phải những căn bệnh về tim mạch, tâm thần và có thể có những ý định tiêu cực, bế tắc … Để khẳng định mạnh mẽ vai trò to lớn của giao tiếp trong cuộc sống, David W. Johnson trong tác phẩm Reaching Out Với tới tha nhân đã mượn lời một nhân vật thốt lên rằng “Chúng ta phải thương yêu nhau hay là chết”. * Giao tiếp tốt đẹp với mọi người xung quanh sẽ mang lại cuộc sống tốt đẹp 5 Giáo trình Khoa học Giao tiếp - Con người có mối quan hệ tốt đẹp với cuộc sống chung quanh sẽ nhận được niềm vui, sự hỗ trợ để có một chỗ đứng vững vàng trong xã hội, trong sự nghiệp và sẽ tìm thấy được hạnh phúc cùng một tương lai luôn rộng mở. - Mối quan hệ tốt đẹp với cuộc sống chung quanh còn mang lại tuổi thọ cho con người theo một số cuộc điều tra được công bố rộng rãi, nam giới ở độ tuổi 47, nếu ly dị hay góa vợ thì tỷ lệ tử vong sẽ cao hơn nhiều lần so với những người có cuộc sống hạnh phúc. - Mối quan hệ với cuộc sống xung quanh ảnh hưởng rõ rệt đến sức khỏe thể chất của con người kinh nghiệm và các cuộc điều tra cũng chứng minh rằng nếu có sự hỗ trợ của người thân, của xã hội bệnh nhân sẽ phục hồi nhanh chóng dễ dàng. Giao tiếp là điều kiện cho con người hình thành, hoàn thiện nhân cách - Qua giao tiếp, từ sự đáp ứng và phản hồi của người xung quanh, con người tiếp nhận kiến thức về thế giới, về bản thân để hình thành nên nhân cách. - Con người thể hiện nhân cách, tiếp tục điều chỉnh và hoàn thiện nhân cách bản thân nhờ vào quá trình giao tiếp. Sự hoàn thiện nầy diễn ra liên tục trong suốt cuộc đời con người. Giao tiếp tốt sẽ tạo các quan hệ thuận lợi cho công cuộc làm ăn, chung sống - Giao tiếp tốt sẽ là điều kiện thuận lợi cho công cuộc làm ăn phát triển con người khi có mối quan hệ tốt với những người chung quanh sẽ nhận được sự yêu thương, hỗ trợ, sẽ có chỗ đứng vững vàng trong cuộc sống và dễ dàng có những bước thăng tiến trong sự nghiệp. - Một xã hội được xây dựng trên nền tảng của mối giao tiếp chặt chẽ, tốt đẹp sẽ có những bước phát triển mạnh mẽ. Dễ dàng nhận thấy ở một xã hội kém phát triển, mối tương tác của các thành viên trong xã hội đó rất mờ nhạt, giao tiếp trong xã hội nhiều hạn chế, kinh tế thường rơi vào tình trạng manh mún, cuộc sống tự cung tự cấp là chủ yếu CÁC QUAN NIỆM TRIẾT HỌC VỀ GIAO TIẾP Quan niệm của Phật giáo “Kẻ nào tặng người khác bông hồng, trên tay kẻ đó phảng phất mùi thơm”. Cuộc sống hạnh phúc luôn dành cho những người sẵn sàng mở lòng, trao tặng người khác những điều tốt đẹp, bởi khái niệm “cho” luôn bao hàm trong nó khái niệm “nhận” . Quan niệm của Nho giáo Theo Khổng Tử“Cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cứ” Cùng đường sẽ có biến, có biến mới thông, có thông mới lâu bền được. Nguyên tắc quan trọng trong đạo xử thế của Khổng Tử là phải biết biến. Biến ở đây là sự ứng xử, giải quyết tình thế cho phù hợp với từng tình huống, từng đối tượng giao tiếp. Trong cuộc đời, nếu lúc nào cũng nguyên tắc cứng nhắc thì khó có được thành công. Đôi khi, sự thiếu uyển chuyển còn mang đến cho người ta một sự thất bại thảm hại. Truyện cổ dân gian Việt Nam có câu truyện cười “Làm theo lời vợ dặn”có thể xem là bài học ý nhị minh họa cho phép xử thế của Khổng Tử phải biết biến hay là chết. Cùng ý nghĩa với quan niệm trên, Kinh Thánh của đạo Thiên Chúa có dạy rằng nếu cuộc đời đóng sập cánh cửa này trước mặt ta thì cũng có nghĩa là đang có một cánh cửa khác được mở ra. Tuy nhiên, sự biến này chưa chắc đã dẫn con người tới chỗ thông nếu con người chưa được trang bị tốt kỹ năng sống. Danh ngôn phương Tây có câu nói rất hay rằng con đường luôn có dưới chân người giàu nghị lực. Hay nói khác đi, để có thể sống và sống tốt, 6 Giáo trình Khoa học Giao tiếp chúng ta phải vững vàng đi vào cuộc sống, hòa nhập với cuộc sống trong tâm thế của người trong cuộc. Khi đó, kỹ năng giao tiếp tốt với cộng đồng sẽ giúp chúng ta tìm được con đường thông suốt cho bản thân. Như vậy, đạo xử thế hay mối quan hệ giữa con người với nhau hay giao tiếp xã hội phải có sự thay đổi, điều chỉnh uyển chuyển cho phù hợp với sự thay đổi của môi trường sống thì con người mới có thể tồn tại, phát triển cùng với xã hội Hoặc theo Tử Phòng người giúp Lưu Bang xây dựng cơ đồ nhà Hán. Khi nghiệp lớn đã hoàn thành, ông từ bỏ quan trường lên núi tìm đường tu tiên, thì sống trong cuộc đời “Phải luôn tự biết mình là ai. Muốn thế phải hiểu rõ cái thời mình đang sống”. Quan niệm này đi sâu mở rộng hơn quan niệm của Khổng Tử, không chỉ có biến mới thông, có thông mới lâu bền, Tử Phòng nhấn mạnh biết người biết ta thì trăm trận mới trăm thắng. Nguyễn Trãi, tài năng, đức độ rạng ngời “sáng tựa sao Khuê” nhưng chỉ vì không chấp nhận được cái thời mình đang sống mà phải nhận lấy hậu quả vô cùng khốc liệt cho cuộc đời. Bản án “tru di tam tộc” không chỉ đẫm máu dòng họ của Nguyễn Trãi và những dòng họ có liên quan đến ông mà còn làm nhỏ máu biết bao thế hệ tâm hồn Việt Nam quan tâm đến lịch sử dân tộc. Quan niệm của triết học Mác- Lênin “Con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội” Quan niệm này làm rõ hơn về tầm quan trọng lớn lao của giao tiếp. Con người sẽ không thể là con người nếu không có môi trường sống với những mối quan hệ vô cùng đa dạng và phức tạp của nó. Giao tiếp giữ vai trò quyết định trong việc xác định tư cách Người cho con người, để từ đó con người phát huy vai trò của mình, thúc đẩy xã hội phát triển. CÂU HỎI 1. Giao tiếp có vai trò như thế nào trong cuộc sống con người? 2. Giao tiếp có vai trò như thế nào trong sự hình thành và phát triển của xã hội? 3. Những ngành nghề nào cần thiết phải có kỹ năng giao tiếp tốt? Tại sao? BÀI TẬP 1. Trong số các hiện tượng được nêu ra dưới đây, hiện tượng nào là giao tiếp? a. Một đứa trẻ đang trò chuyện với một con búp bê. b. Người thư ký đang soạn thảo một bức thư điện tử để gửi đến một đối tác ở xa. c. Hai người đang cãi cọ to tiếng với nhau. d. Hai đứa trẻ đang chơi đùa với nhau. e. Một nhân viên bán hàng đang giải thích cho khách hàng mua một sản phẩm. f. Bộ trưởng ngoại giao các nước ASEAN gặp nhau để thống nhất về cuộc gặp thượng đỉnh giữa các nguyên thủ quốc gia. 2. 7 Giáo trình Khoa học Giao tiếp 8 Giáo trình Khoa học Giao tiếp Bài 2 CÁC CÁCH TIẾP CẬN HIỆN TƯỢNG GIAO TIẾP Giao tiếp là một quá trình phức tạp, nhiều mặt, nhiều mức độ của sự tác động qua lại giữa con người với con người. Trong giao tiếp có các mặt Trao đổi thông tin, tác động lẫn nhau, nhận thức, hiểu biết lẫn nhau. Do đó cần tiếp cận hiện tượng giao tiếp như là một đối tượng khoa học liên ngành Tâm lý học, Ngôn ngữ học, văn hóa, lý thuyết thông tin… TIẾP CẬN TỪ YẾU TỐ TÂM LÝ Tíêp cận hiện tượng giao tiếp từ yếu tố tâm lý để thấy được cơ sở quan trọng nhất của hoạt động giao tiếp của con người, đó chính là tâm lý. Tất cả các hiện tượng tâm lý diễn ra trong suy nghĩ của con người, gắn với hoạt động của con người và nó điều hành các hoạt động của con người, đặc biết là hoạt động giao tiếp Hình Các yếu tố tâm lí Những nhu cầu cơ bản của con người Abraham Maslow là người đầu tiên hình dung sự phát triển của con người như những bậc thang, mỗi nhu cầu trong số đó phải được thỏa mãn trong mối quan hệ với môi trường dọc theo chiếc thang phát triển này. Theo ông những nhu cầu là cơ sở cho sự phát triển lành mạnh của con người. Hệ thống các nhu cầu cơ bản của con người có phân cấp. Mỗi bậc của thang nhu cầu phụ thuộc vào bậc trước đó. Nếu có một nhu cầu không được đáp ứng, nó sẽ ảnh hưởng đến khả năng của cá nhân ở các bước phát triển tiếp theo. TI P C N T Ế Ậ Ừ Y U T TÂM LÝẾ Ố Nhu cầu Tình cảm Nh n ậ th cứ Tính cách Ni mề tin 9 Giáo trình Khoa học Giao tiếp Hình Bậc thang những nhu cầu cơ bản theo Maslow Nguồn Quản lí nguồn nhân lực, Paul Hersey, Ken Blanc Hard * Nhu cầu sinh học Bậc thang này rất cơ bản và rất quan trọng. Nếu nhu cầu cơ bản này chưa được đáp ứng đủ thì các nhu cầu khác ít có động cơ thúc đẩy. Nhưng nếu nó được đáp ứng thì nhu cầu kế tiếp lại xuất hiện nổi trội hơn và tiếp tục như vậy. Khi nhu cầu sinh tồn được thỏa mãn thì con người sẽ hướng về sự an toàn. * Nhu cầu được an toàn Đây là nhu cầu tự duy trì và chuẩn bị cho tương lai vững chắc hơn. An toàn có nghĩa là an toàn để sống trong một môi trường cho phép sự phát triển của con người được liên tục và lành mạnh. Điều này có nghĩa là một ngôi nhà, công việc, điều kiện được chăm sóc y tế và sự bảo vệ cơ thể. Sau khi nhu cầu này được thỏa mãn thì nhu cầu xã hội có thể xuất hiện nổi trội hơn, nhưng cũng có thể con người trở nên an phận, bảo thủ. * Nhu cầu xã hội Trong đời sống, mỗi cá nhân đều mong muốn mình “thuộc về” các nhóm khác nhau và được chấp nhận, được yêu thương, cố gắng có mối quan hệ tốt đẹp với người khác. Cảm tưởng không được yêu thương, bị bỏ rơi, bị cô lập là cội rễ của hầu hết những trường hợp không hội nhập. Chúng ta đã ghi nhận được là trẻ em trong một số trại trẻ mồ côi, dù được chăm sóc tốt về mặt thể chất, nhưng chúng không lớn lên gọi là “lùn tâm lí” và phát triển bình thường như trẻ em khác. * Nhu cầu được tôn trọng Khi đã được chấp nhận thì con người lại muốn được đánh giá cao. Điều này đơn giản là nhu cầu cảm thấy mình tốt, cảm nhận con người mình có giá trị và một chút tự hào về những thành quả của bản thân. Một mặt, con người muốn tự do và độc lập, mặt khác cũng muốn có sức mạnh, năng lực khi đối phó với cuộc đời. Việc thỏa mãn nhu cầu được tôn trọng giúp con người tự tin, có được uy tín, quyền lực và cả sự kiềm chế. Con người cảm thấy có ích và có ảnh hưởng đến môi trường xung quanh, được sụ kính nể của người khác. Sự tự nhìn nhận của mọi người giúp cho con người nỗ lực nhiều hơn nữa. Ngược lại thì có thể dẫn đến các hành vi phá hoại. * Nhu cầu tự khẳng định mình Tự khẳng định mình là nhu cầu để tăng đến mức tối đa tiềm năng của một người. Nhu cầu này bao gồm những khát vọng và những nỗ lực để trở thành cái mà một người có thể trở thành. Maslow nói “ Một con người muốn có thể sẽ là gì, thì anh ta sẽ phải là cái đó” Vì vậy, tự khẳng định mình là một mong muốn làm cái điều mà người ta có thể đạt được. Đó là nhu cầu về phát triển nhân cách – cơ hội cho phát triển bản thân và tự học tập. Có cơ hội để phát triển tiềm năng bản thân và những kĩ năng của một con người tạo cho ta cảm giác quan trọng về tự hoàn thiện. * Đặc điểm của các nhu cầu cơ bản của con người Nhu cầu là nguyên nhân hoạt động của con người. Con người nỗ lực hoạt động để thỏa mãn các nhu cầu cơ bản. Bất cứ nhu cầu nào cũng có mục đích. Nhu cầu và mục đích luôn thay đổi. Cùng một nhu cầu, mỗi con người có thể hướng đến mục đích không giống nhau và ngược lại. 10 [...]... biện pháp để việc phối hợp giao tiếp bằng ngôn ngữ có lời với ngôn ngữ không lời đạt hiệu quả cao Bài 6 KHOẢNG CÁCH TRONG GIAO TIẾP GIAO TIẾP TRỰC TIẾP VÀ GIAO TIẾP GIÁN TIẾP Giao tiếp trực tiếp * Thế nào là giao tiếp trực tiếp Giao tiếp trực tiếp là giao tiếp mà các chủ thể trực tiếp phát và nhận tín hiệu với nhau giao tiếp mặt đối mặt Đây là hình thức giao tiếp đầu tiên của con người... của giao tiếp trực tiếp Giao tiếp trực tiếp kết hợp được phương tiện ngôn ngữ và phương tiện phi ngôn ngữ nên cuộc giao tiếp diễn ra sinh động, cuốn hút Các chủ thể tìm thấy sự thích thú, hưng phấn trong giao tiếp và sẽ tăng thêm nhu cầu được giao tiếp 29 Giáo trình Khoa học Giao tiếp Giao tiếp trực tiếp với hình thức mặt đối mặt giúp cho các đối tượng giao tiếp tri giác nhau một cách đầy đủ Giao tiếp. .. lời; bằng hình thức giao tiếp trực tiếp hoặc giao tiếp gián tiếp Mỗi hình thức giao tiếp đều ẩn chứa ưu điểm, nhược điểm nên các chủ thể giao tiếp phải hết sức tỉnh táo, linh hoạt để có sự chọn lựa, sử dụng phù hợp nhất Bài 4 NỘI DUNG GIAO TIẾP NGHĨA VÀ SỰ TRUYỀN ĐẠT NGHĨA TRONG GIAO TIẾP Nghĩa trong ngôn ngữ giao tiếp Ngôn ngữ giao tiếp gồm Ngôn ngữ có lời – Giao tiếp bằng ngôn từ ;... Sơ đồ về quá trình truyền đạt nghĩa trong giao tiếp CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC NỘI DUNG GIAO TIẾP * Nội dung giao tiếp Nội dung giao tiếp là những vấn đề, chủ đề được đề cập đến trong cuộc giao tiếp hoặc trong hành vi giao tiếp Nội dung giao tiếp được thể hiện qua các chủ đề giao tiếp và mức độ phong phú, sâu sắc của từng chủ đề Nội dung giao tiếp tốt có các tính chất - Nội dung phong phú,... thực hiện nội dung giao tiếp Để giao tiếp có hiệu quả, cần chuẩn bị đầy đủ các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình giao tiếp, đặc biệt là nội dung giao tiếp Sau đây là những yếu tố cơ bản để có nội dung giao tiếp tốt Hiểu rõ nội dung giao tiếp Để làm gì? Như thế nào? chọn lựa kênh giao tiếp , Có bản ghi nhớ hoặc được viết ra, hoặc đã thuộc, sổ ghi chép… Tìm hiểu đối tượng giao tiếp Với ai? Trình... hóa thời trang, văn hóa giao tiếp ứng xử, văn hóa giao thông, văn hóa xã hội… Văn hóa giao tiếp Cũng như các mặt khác của cuộc sống con người, giao tiếp rất cần có văn hóa Văn hóa giao tiếp đó là những chuẩn mực của giao tiếp, những nét đẹp trong giao tiếp để hoạt động giao tiếp ngày càng hoàn thiện và tốt đẹp Mỗi dân tộc, tôn giáo, chủng tộc, địa phương… đều có văn hoá giao tiêp tốt đẹp tạo điều... 3 bài Bài 4 Nôi dung giao tiếp Bài 5 Ngôn ngữ trong giao tiếp Bài 6 Khoảng cách trong giao tiếp Với 3 bài này, chương 2 truyền tải những nội dung chính sau - Nội dung giao tiếp có 3 dạng cơ bản hiển ngôn, hàm ngôn, ngụy biện Mỗi dạng đều có ý nghĩa riêng…Nội dung giao tiếp còn các các đặc tính quan trọng…góp phần tạo nên nghệ thuật giao tiếp Các hình thức giao tiếp giao tiếp bằng phương tiện ngôn... huống tương ứng” - Bối cảnh giao tiếp không gian, thời gian, nền văn hóa… MẠNG GIAO TIẾP Mạng giao tiếp Mạng giao tiếp là tập hợp các kênh trong một nhóm có tổ chức, theo đó các thông điệp được truyền đi Mạng giao tiếp được săp xếp một cách có kế hoạch hoặc tự phát Mạng giao tiếp có ảnh hưởng rõ rệt đến khả năng thu nhận thông tin và hiệu quả giao tiếp Mạng giao tiếp thường được sử dụng nhiều... nhiều hành vi giao tiếp khác nhau vì có nhiều tình tuống khác nhau và giao tiếp với nhiều đối tượng khác nhau Ví dụ, một giáo viên khi ở trên lớp giao tiếp với học sinh, khi về nhà lại giao tiếp với bạn bè Mỗi đối tượng trên, giáo viên phải giao tiếp khác Hành vi Giao tiếp được thúc đẩy bởi mục tiêu muốn thỏa mãn một nhu cầu nào đó Việc thỏa mãn nhu cầu liên quan đến khả năng của chủ thể giao tiếp Nếu chưa... Thế cũng có nghĩa là không dễ dàng đạt hiệu quả cao trong giao tiếp có lời như một số người vẫn lầm tưởng Lời nói trong giao tiếp * Tầm quan trọng của lời nói trong giao tiếp 26 Giáo trình Khoa học Giao tiếp Giao tiếp bằng lời nói là hình thức giao tiếp thông dụng, phổ biến nhất Qua lời nói, nội dung thông tin được truyền đi tác động trực tiếp, nhanh nhất đến cá nhân đối tác Lời nói như mũi tên, . Giáo trình Khoa học Giao tiếp MỞ ĐẦU 1 VỊ TRÍ, TÍNH CHẤT, MỤC TIÊU VÀ YÊU CẦU CỦA MÔN HỌC Vị trí và tinh chất của môn học Khoa học giao tiếp là môn học thuộc khối kiến thức. 2 Giáo trình Khoa học Giao tiếp Những người thực hiện. Chương 1 KHOA HỌC GIAO TIẾP VÀ HÀNH VI GIAO TIẾP MỤC TIÊU - Sinh viên phải phát biểu được các khái niệm giao tiếp, hành vi giao tiếp và. đại trong cuộc sống cũng như trong công việc. 1 Giáo trình Khoa học Giao tiếp Phương pháp học tập môn học nhập môn khoa học giao tiếp Sinh viên có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, - Xem thêm -Xem thêm Nhập môn khoa học giao tiếp, Nhập môn khoa học giao tiếp, Ôn thi Nhập Môn Khoa Học Giao Tiếp by 1. Chương 1 Khoa học giao tiếp và Hành vi giao 1. Giao tiếp và việc nghiên cứu giao a. giao tiếp là b. các mức độ giao c. Phân loại giao d. Chức năng giao 2. Vai trò của giao a. Giao tiếp là tiền đề cho sự phát triển sức b. Giao tiếp là điều kiện giúp cho con người hình thành, hoàn thiện nhân 3. Các quan điểm triết học về giao Câu hỏi ôn 1. giao tiếp có vai trò như thế nào trong đời sống con 2. Giao tiếp có vai trò như thế nào trong hình thành và phát triển của xã hội 2. Chương 2 Nội dung và hình thức giao Nội dung giao nội dung giao nghĩa và truyền đạt nghĩa trong giao Hình thức giao tiếp

trắc nghiệm nhập môn khoa học giao tiếp