Thừa thắng, Đinh Bộ Lĩnh đem quân đánh chiếm được Đỗ Động GIang. Giao chiến hơn 1 năm sau, đến năm 967 thì Đỗ Cảnh Thạc không còn đủ sức chống đỡ, bị trúng tên và mất ở núi Sài Sơn. Đinh Tiên Hoàng đánh bại 12 Sứ quân thống nhất Giang Sơn . Đinh Tiên Hoàng đế Đinh Bộ Lĩnh (968 - 980) Đinh Bộ Lĩnh người động Hoa Lư, châu Đại Hoàng (Hoa Lư, Ninh Bình), con Đinh Công Trứ, một nha tướng của Dương Đình nghệ giữ chức Thứ sử Châu Hoan. Đinh Công Trứ mất sớm, Bộ Lĩnh theo mẹ về quê ở, thường đi chơi với kẻ chăn trâu, bắt chúng khoanh tay làm kiệu Câu chuyện về một “chiến binh” Parkinson bản lĩnh. Đã 27 năm kể khi được chẩn đoán bệnh Parkinson (1992) nhưng đến nay ông Chử Trọng Thành (Việt Trì, Phú Thọ) vẫn có thể đi lại nhanh nhẹn, thăm hỏi bạn bè trên mọi miền tổ quốc. Bởi quyết tâm chiến thắng bệnh Mua Sách - Tranh Truyện Lịch Sử Việt Nam - Đinh Bộ Lĩnh giá tốt. Mua hàng qua mạng uy tín, tiện lợi. Shopee đảm bảo nhận hàng, hoặc được hoàn lại tiền Giao Hàng Miễn Phí. Năm 963, Ngô Xương Văn chết. Mười hai châu trong nước đại loạn. Đinh Bộ Lĩnh cùng con trai là Đinh Liễn đã đem quân dẹp loạn. Dân chúng cảm ơn đức, nên suy tôn Đinh Bộ Lĩnh làm Giao Châu súy, hiệu là Đại Thắng vương, cho Đinh Liễn làm Tiết độ sứ. Năm 965, Nam Hán đã Những câu chuyện kinh doanh đáng suy ngẫm. Câu chuyện 6: Kén rể. Câu chuyện 7: Iphone. Câu chuyện thứ 9: Sói, gấu và cáo. Câu chuyện thứ 10: Chàng và nàng. Câu chuyện thứ 11: Chú chim nhỏ. Câu chuyện thứ 12: KFC. Câu chuyện thứ 13: Sáng tạo trong bán hàng. Câu chuyện thứ 14: Nhân Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, khai mở triều đại nhà Đinh. Lên ngôi chưa lâu, ông bị hại khi đang ngủ. Đến nay, nhiều nhà sử học còn tranh luận về thủ phạm giết vua. sinh ngày rằm tháng 2 năm Giáp Thân (tức ngày 22/3/924). Ông là con của Thứ sử Đinh Công Trứ tại PbPAdVL. Tên gọi Tuổi thơ Thống nhất đất nước Cát cứ chống nhà Ngô Loạn 12 sứ quân Dẹp các sứ quân Chiêu hàng Cai trị Mở nước Đại Cồ Việt Đóng đô Hoa Lư Xưng Hoàng Đế Ngoại giao Cái chết Nghi án cung đình Lời bàn Nhận định Điểm giống Tần Thủy Hoàng Tôn vinh Trong văn học, nghệ thuật Đền thờ, tượng đài Gia đình Tham khảo Chú thích Xem thêm Đinh Tiên Hoàng 丁先皇 Vua Việt Nam chi tiết... Tượng Đinh Tiên Hoàng ở Hoa Lư Hoàng đế Đại Cồ Việt Trị vì 968 - 979 Tiền nhiệm Sáng lập triều đại Kế nhiệm Đinh Phế Đế Thông tin chung Hoàng hậu Hoàng hậu Đan Gia Trinh Minh Kiểu Quốc Cồ Quốc Ca Ông Hậu duệ Hậu duệ Đinh Liễn Đinh Toàn Đinh Hạng Lang Tên húy Đinh Bộ Lĩnh 丁部領 Đinh Hoàn 丁桓 Tước hiệu Đại Thắng Minh Hoàng Đế 大勝明皇帝 Tiên Hoàng Đế 先皇帝 Niên hiệu Thái Bình 太平 Triều đại Nhà Đinh Thân phụ Đinh Công Trứ Sinh 22 tháng 3 năm 924 Gia Viễn, Ninh Bình Mất Tháng 10 năm 979 Hoa Lư, Ninh Bình Đinh Tiên Hoàng chữ Hán 丁先皇; 22 tháng 3 năm 924 - tháng 10 năm 979, tên húy là Đinh Bộ Lĩnh 丁部領 hoặc có sách gọi Đinh Hoàn 丁桓 xem mục Tên gọi bên dưới, là vị hoàng đế sáng lập triều đại nhà Đinh, nước Đại Cồ Việt trong lịch sử Việt là người có công đánh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất giang sơn và trở thành hoàng đế đầu tiên của Việt Nam sau thời Bắc thuộc. Đại Cồ Việt là nhà nước mở đầu cho thời đại độc lập, tự chủ, xây dựng chế độ quân chủ tập quyền ở Việt Đinh Bộ Lĩnh mở nước, lập đô, lấy niên hiệu với tư cách người đứng đầu một vương triều bề thế Thời kỳ phục quốc của Việt Nam, từ họ Khúc chỉ xưng làm Tiết độ sứ, tới Ngô Quyền xưng vương và tới vua Đinh xưng làm hoàng đế. Sau một số vị vua xưng Đế từ trước và giữa thời Bắc thuộc2 rồi bị thất bại trước hoạ ngoại xâm, đến thời nhà Đinh, người cầm quyền Việt Nam mới thực sự vươn tới đỉnh cao ngôi vị và danh hiệu, khẳng định vị thế vững chắc của quốc gia độc lập, thống nhất qua các triều đại Đinh – Lê – Lý – Trần và buộc các điển lễ, sách phong của cường quyền phương Bắc phải công nhận là một nước độc lập. Từ Đinh Bộ Lĩnh trở về sau, các Vua không xưng Vương hay Tiết độ sứ nữa mà đều xưng Hoàng đế như một dòng chính thống. Đinh Tiên Hoàng là vị hoàng đế đặt nền móng sáng lập nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên ở Việt Nam3 4 5 , vì thế mà ông còn được gọi là người mở nền chính thống cho các triều đại phong kiến trong lịch sử. Tên gọiHầu hết các chính sử như An Nam chí lược; "Việt sử lược", "Đại Việt sử ký toàn thư", Việt sử tiêu án, đều viết Đinh Tiên Hoàng vốn họ Đinh tên Bộ Lĩnh 丁部領6 7 . Trần Trọng Kim trong sách Việt Nam sử lược cho biết "có sách" nói Đinh Tiên Hoàng tên thật là Đinh Hoàn 丁桓, "Bộ Lĩnh" là tước quan Trần Lãm phong cho Đinh Hoàn nhưng do Khâm định Việt sử thông giám cương mục và các sách khác đều nói Đinh Tiên Hoàng tên thật là Đinh Bộ Lĩnh nên ông không dùng tên Đinh Hoàn để gọi Đinh Tiên Hoàng. Trần Trọng Kim không nói rõ "sách" mà ông nhắc đến là sách gì8 .Tên gọi "Đinh Tiên Hoàng" có nghĩa là vị vua đã khuất mang họ Đinh, đây không phải là tên thật hay thuỵ hiệu, miếu hiệu của Đinh Tiên Hoàng. Trong Việt sử lược Đinh Tiên Hoàng được gọi là "Đinh Tiên Vương" 丁先王, "Tiên Vương" 先王6 , trong Đại Việt sử ký toàn thư ông được gọi là "Tiên Hoàng Đế" 先皇帝, "Tiên Hoàng" 先皇7 . "Tiên Vương", "Tiên Hoàng", "Tiên Hoàng Đế" đều là tên gọi tôn kính dùng để chỉ một vị vua đã khuất9 10 11 . Một nhân vật lịch sử Việt Nam khác cũng có cái tên chắp ghép theo kiểu này là Trần Hưng Đạo ghép từ họ Trần của ông với Hưng Đạo vương, là tước vị của ông. Tuổi thơĐinh Bộ Lĩnh sinh vào ngày Rằm tháng Hai, năm Giáp Thân tức 22 tháng 3 năm 924 ở thôn Kim Lư, làng Đại Hữu, châu Đại Hoàng nay thuộc xã Gia Phương, Gia Viễn, Ninh Bình12 13 . Cha của ông là Đinh Công Trứ, nha tướng của Dương Đình Nghệ, giữ chức thứ sử Hoan Châu. Đinh Công Trứ mất sớm, Bộ Lĩnh theo mẹ về quê ngoại Gia Thủy, Nho Quan ở, vẫn nương nhờ người chú ruột là Đinh Thúc Dự ở quê nội gần đó. Từ bé Đinh Bộ Lĩnh đã tỏ ra là người có khả năng chỉ huy, ông cùng các bạn chăn trâu lấy bông lau làm cờ bày trận đánh nhau. Và trong đám bạn đó, có Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lưu Cơ và Trịnh Tú, những người sau này cùng Đinh Bộ Lĩnh tạo nên sự sách An Nam chí lược Đinh Bộ Lĩnh, người động Hoa Lư, Giao Châu. Cha là Công Trứ, làm nha-tướng của Dương Đình Nghệ. Cuối thời Ngũ Đại, Dương Đình Nghệ đi trấn Giao Châu, lấy CôngTrứ quyền Thứ Sử Hoan-Châu. Trước đây, Ngô Quyền giết Kiều Công Tiện, cha con Bộ Lĩnh về với Ngô Quyền, Quyền nhân khiến Công Trứ về nhiệm chức cũ. Khi Công Trứ mất, Bộ Lĩnh kế tập chức Theo sách Việt sử tiêu án Vua Đinh, tên Bộ Lĩnh, người làng Đại Hoàng, động Hoa Lư. Thân phụ Vua là Công Trứ, nha tướng của Dương Đình Nghệ, cai trị Hoan Châu, mẹ là họ Đàm, nằm mộng thấy có một người lớn tay cầm cái ấn vua đến xin làm con, bèn có mang mà sinh ra Vua, được ít lâu thì thân phụ dắt vào ở trong động, chơi với trẻ chăn trâu, lũ trẻ tôn làm đàn anh. Mỗi khi chơi đùa, giao tay nhau cho Vua ngồi lên, khiêng đi làm xe, lấy bông lao làm cờ, dàn ra hai bên, rước đi làm như nghị vệ nhà vua. Trong nhà nuôi được con lợn, thừa lúc mẹ đi vắng, Vua mổ lợn khao bọn trẻ rồi di cư đến Đào Úc Sách. Bà mẹ sợ, mang chuyện ấy nói với chú Đinh Dự, Dự cầm dao đi tìm, đuổi đến bờ sông, Vua chạy sa vào bùn lầy, thấy có con rồng vàng, đỡ hai bên Vua sang qua sông. Ông chú sợ bỏ về, Vua bèn theo bọn ngư hộ làm nghề đánh cá, bắt được ngọc huê lớn để vào đáy giỏ. Đến đêm vào chùa ngủ trọ, nhà sư thấy trong cái giỏ có tia sáng tròn, hỏi cớ sao, và nói rằng "Anh này ngày sau cao quý không thể nói được". Sau đến nương nhờ Trần Minh Công, làm chỉ huy của quân Trần đánh đâu được đấy, gọi là Vạn Thắng Vương. Quần thần dâng tôn hiệu là Đại Thắng Minh Hoàng Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép"Vua mồ côi cha từ bé, mẹ họ Đàm đưa gia thuộc vào ở cạnh đền sơn thần trong động. Vào tuổi nhi đồng, vua thường cùng bọn trẻ con chăn trâu ngoài đồng. Bọn trẻ tự hiểu kiến thức không bằng vua, cùng nhau suy tôn ông làm trưởng. Phàm khi chơi đùa, thường bắt bọn chúng chéo tay làm kiệu khiêng và cầm hoa lau đi hai bên để rước như nghi trượng thiên tử. Ngày rỗi, thường kéo nhau đi đánh trẻ con thôn khác, đến đâu bọn trẻ đều sợ phục, hàng ngày rủ nhau đến phục dịch kiếm củi, thổi cơm. Bà mẹ thấy vậy mừng lắm, mổ lợn nhà cho bọn chúng ăn. Phụ lão các sách bảo nhau "Đứa bé này khí lượng như thế ắt làm nên sự nghiệp, Chúng ta nếu không theo về, ngày sau hối thì đã muộn". Bèn dẫn con em đến theo, rồi lập làm trưởng ở sách Đào Áo. Người chú của vua giữ sách Bông chống đánh với vua. Bấy giờ, vua còn ít tuổi, thế quân chưa mạnh, phải thua chạy. Khi qua cầu ở Đàm Gia Nương Loan,16 cầu gãy, vua rơi xuống bùn, người chú toan đâm, bỗng thấy hai con rồng vàng hộ vệ vua, nên sợ mà lui. Vua thu nhặt quân còn sót, quay lại đánh, người chú phải hàng. Từ đấy ai cũng sợ phục, phàm đi đánh đến đâu đều dễ như chẻ tre, gọi là Vạn Thắng Vương." Thống nhất đất nước Cát cứ chống nhà NgôTheo sách Đại Việt sử ký toàn thư Đinh Bộ Lĩnh nghe tiếng Trần Minh Công là người có đức mà không có con nối, bèn cùng với con là Đinh Liễn đến nương tựa. Minh Công thấy Đinh Bộ Lĩnh dáng mạo khôi ngô lạ thường, lại có khí lượng, mới nuôi làm con, ơn yêu đãi ngày càng hậu, nhân đó giao cho coi quân, sai đi đánh các hùng trưởng khác, đều thắng được Theo sách Việt Nam sử lược Do không hòa với chú nên Đinh cho nên Bộ Lĩnh cùng với con là Liễn sang ở với Sứ-quân Trần Minh-công ở Bố-hải khẩu Phủ Kiến-xương, Thái-bình.18 Sau khi Trần Minh Công mất, Đinh Bộ Lĩnh thay quyền, đưa quân về Hoa Lư, chiêu mộ binh lính, chống nhà Ngô và các sứ quân trướng ông những hào kiệt của Giao Châu đều có mặt Giao Châu thất hùng gồm Đinh Bộ Lĩnh, Đinh Liễn, Lê Hoàn, Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp, Phạm Cự Lạng.19 20 Năm 951, con trai Ngô Quyền là Ngô Xương Văn truất bỏ Dương Tam Kha, tự lập làm vương, xưng là Nam Sách vương, rước anh là Ngô Xương Ngập trở về lập làm Thiên Sách vương. Đinh Bộ Lĩnh lúc ấy cậy có khe núi Hoa Lư hiểm trở, không chịu làm tôi. Hai vương muốn cất quân đi đánh, Bộ Lĩnh sợ, sai con là Liễn vào triều làm con tin để ngăn chặn việc xuất quân. Đinh Liễn đến, hai vương trách tội Bộ Lĩnh không đến chầu, rồi bắt giữ Liễn đem theo đi Hai bên đánh nhau hơn một tháng không phân thắng bại, hai vương bèn treo Liễn lên ngọn sào, sai người bảo Bộ Lĩnh, nếu không chịu hàng thì giết Đinh Liễn. Đinh Bộ Lĩnh tức giận nói Đại trượng phu chỉ mong lập được công danh, há lại bắt chước thói đàn bà xót con hay sao. Liền sai hơn mười tay nỏ nhắm Đinh Liễn mà bắn. Hai vương kinh sợ Ta treo con nó lên là muốn để nó đoái tiếc con mà ra hàng cho chóng. Nó tàn nhẫn như thế, còn treo con nó làm gì. Bèn không giết Liễn mà đem quân Loạn 12 sứ quânNăm 944 Ngô Quyền mất. Anh vợ của Ngô Quyền là Dương Tam Kha tự lập làm vua là Dương Bình Vương. Năm 950, Ngô Xương Văn, con thứ hai của Ngô Quyền, lật đổ Dương Tam Kha giành lại ngôi vua, xưng là Nam Tấn vương. Ngô Xương Văn đón anh trai là Ngô Xương Ngập về cùng làm vua, xưng là Thiên Sách Vương. Đến năm 954, Thiên Sách vương Ngô Xương Ngập bị bệnh Năm 965, Ngô Xương Văn đi đánh thôn Đường và Nguyễn ở Thái Bình bị phục binh bắn chết24 . Năm 966, sau cái chết của Nam Tấn vương các hùng trưởng đua nhau nổi dậy chiếm cứ quận ấp để tự giữ, hình thành 12 sứ quân25 Sơ đồ chiếm đóng 12 sứ quân Ngô Xương Xí giữ Bình Kiều Triệu Sơn - Thanh Hóa 26 . Đỗ Cảnh Thạc tự xưng là Đỗ Cảnh Công, giữ Đỗ Động Giang Thanh Oai, Hà Nội Trần Lãm tự xưng là Trần Minh Công, giữ Bố Hải Khẩu - Kỳ Bố Thái Bình Kiều Công Hãn tự xưng Kiều Tam Chế, giữ Phong Châu - Bạch Hạc Việt Trì và Lâm Thao, Phú Thọ Nguyễn Khoan tự xưng Nguyễn Thái Bình, giữ Tam Đái Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc Ngô Nhật Khánh tự xưng là Ngô Lãm Công, giữ Đường Lâm Sơn Tây, Hà Nội Lý Khuê tự xưng là Lý Lãng, giữ Siêu Loại Thuận Thành, Bắc Ninh Nguyễn Thủ Tiệp tự xưng là Nguyễn Lệnh Công, giữ Tiên Du Bắc Ninh Lã Đường tự xưng là Lã Tá Công, giữ Tế Giang Văn Giang, Hưng Yên Nguyễn Siêu tự xưng là Nguyễn Hữu Công, giữ Tây Phù Liệt Thanh Trì, Hà Nội Kiều Thuận tự xưng là Kiều Lệnh Công, giữ Hồi Hồ - Cẩm Khê Phú Thọ Phạm Bạch Hổ tự xưng là Phạm Phòng Át, giữ Đằng Châu Hưng Yên27 28 Sách An Nam chí lược chépVăn chết, tham-mưu của Văn là Ngô Xử Bình, Thứ Sử Phong Châu Kiều Tri Tả, Thứ Sử Ninh Châu Dương Huy và nha tướng Đổ Cảnh Thạc, dùng binh tranh lập, rồi đều bị Đinh Bộ Lĩnh dẹp Dẹp các sứ quânMở đầu sự nghiệp dẹp loạn, Đinh Bộ Lĩnh đã đánh bại lực lượng do Lữ Xử Bình và Kiều Công Hãn ở triều đình Cổ Loa, là những quyền thần nhà Ngô trực tiếp tranh giành ngôi vua 30 .Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc là một sứ quân mạnh, có thành cao hào sâu. Theo thần phả Độc nhĩ đại vương ở Thanh Oai, Đỗ Cảnh Thạc là người trí dũng mưu lược, Đinh Bộ Lĩnh phải bàn mưu tính kế mà đánh. Ban đêm, Đinh Bộ Lĩnh cho quân bao vây 4 mặt thành và tiến đánh bất ngờ vào Trại Quyền. Bấy giờ Đỗ Cảnh Thạc đang ở đồn Bảo Đà, quân tướng không ứng cứu được nhau, bị mất cả thành luỹ, đồn trại, lương thực bèn bỏ thành chạy. Hai bên giao tranh hơn một năm sau, Đinh Bộ Lĩnh hạ được thành. Đỗ Cảnh Thạc bị trúng tên quân Nguyễn Siêu chiếm Tây Phù Liệt Thanh Trì, Hà Nội. Được tin Đinh Bộ Lĩnh sắp đánh. Nguyễn Siêu đem 1 vạn quân đóng ở Thanh Đàm dùng Nguyễn Trí Khả làm tiên phong, Trần Côn làm tá dực, Nguyễn Hiền làm tổng quản các đạo quân, ngày đêm luyện tập, đào hào đắp luỹ để phòng bị. Trong trận giao tranh đầu tiên Đinh Bộ Lĩnh bị mất 4 tướng là Nguyễn Bồ, Nguyễn Phục, Đinh Thiết và Cao Sơn. Lần thứ 2 Đinh Bộ Lĩnh bày binh bố trận giao chiến. Nguyễn Siêu chia một nửa quân ở lại giữ thành, một nửa cùng sứ tướng vượt sông tìm viện binh của các sứ tướng khác. Gần tới bờ bắc, gặp gió lớn, thuyền bị đắm. Đinh Bộ Lĩnh biết tin, bèn sai võ sĩ nửa đêm phóng lửa đốt doanh trại. Quân Nguyễn Siêu tan. Nguyễn Siêu tử Sứ quân Kiều Công Hãn đóng tại Phong Châu, chiếm 3 châu Thái Châu, Hào Châu và Phong Châu xưng là Kiều Tam Chế. Trước thế mạnh của sứ quân Đinh Bộ Lĩnh, Kiều Công Hãn thua chạy đem quân xuống phía nam với ý định hợp sức với Ngô Xương Xí. Khi đến thôn Vạn Diệp Xã Nam Phong, Nam Trực, Nam Định bị một hào trưởng địa phương là Nguyễn Tấn đem quân chặn đánh, Kiều Công Hãn bị thương chạy đến Lũng Kiều thì Nguyễn Thủ Tiệp sau khi chiếm toàn bộ châu Vũ Ninh tự xưng là Vũ Ninh Vương. Khi giao tranh thì Nguyễn Thủ Tiệp ở Tiên Du cũng không chống nổi Đinh Bộ Lĩnh, bỏ chạy về Cần Hải Cửa Cồn, Quỳnh Lưu, Nghệ An đánh nhau vài trận rồi chết ở trang Hương Nguyễn Khoan khi lớn mạnh xưng là Quảng Trí Quân, tức vị Vua vĩ đại. Cuối năm 967, Đinh Bộ Lĩnh dẫn quân lên vùng Tam Đái, Nguyễn Khoan chống không nổi, tử trận. Hai tướng và hai bà vợ của sứ quân này tự vẫn ở Ao Nâu, cạnh gò Đồng khi Đinh Bộ Lĩnh tấn công thành Hồi Hồ, tướng quân Kiều Thuận chống không nổi đành vượt sông Hồng chạy sang thành Mè kết hợp với Ma Xuân Trường chống lại Đinh Bộ Lĩnh. Đinh Bộ Lĩnh đánh chiếm thành Mè, Kiều Thuận tử trận. Ma Xuân Trường chạy lên Yên Bái trốn thoát. Ngày nay, thị xã Phú Thọ còn dấu tích thành Mè. Làng Trù Mật xã Văn Lung thị xã Phú Thọ có đền thờ Ma Xuân Trường và Kiều Lý Khuê chiếm giữ vùng đất Luy Lâu bờ nam sông Đuống, đặt căn cứ ở Siêu Loại Thuận Thành. Theo thần tích ở xã Bình Sơn Thuận Thành, Bắc Ninh thì sứ quân Lý Khuê đánh nhau với Đinh Bộ Lĩnh bị thua và mất ở làng Dương Xá nay thuộc Gia Lâm, Hà Nội.Đầu năm 968, sau khi chiếm lại vùng Bắc Ninh, vốn do các sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp và Lý Khuê cát cứ, Vạn Thắng Vương Đinh Bộ Lĩnh chuyển quân về Siêu Loại, cho Đinh Liễn và Nguyễn Bặc đem ba ngàn quân tiến đánh quân Lã Đường. Lã Đường chủ trương tản quân, đóng giữ chỗ hiểm yếu rậm rạp vùng bùn lầy. Hễ quân Hoa Lư đi đông thì tránh mà đi lẻ là chặn đánh, diệt một vài lính, rồi lại bỏ chạy. Nguyễn Bặc bày kế cho quân Hoa Lư tập trung, tập kích quân lương tiếp vận của quân Lã Đường. Trong vòng 7 ngày, vòng đai phòng thủ bên ngoài của quân Lã Đường bị tiêu diệt hoàn toàn, Đinh Liễn, Nguyễn Bặc đánh sâu vào trung tâm, bắt được Lã Đường, chém chết, thu phục hoàn toàn đất Tế Giang. Chiêu hàngĐể thực hiện nhiệm vụ dẹp loạn và thống nhất đất nước, Đinh Bộ Lĩnh đã khôn khéo vận dụng kế sách chính trị kết hợp với quân sự. Khi lực lượng còn non yếu, ông đã liên kết với sứ quân Trần Lãm ở Bố Hải Khẩu Thái Bình rồi thu phục được Phạm Bạch Hổ ở Đằng Châu Hưng Yên về làm Thân vệ tướng quân. Cuối cùng khi lực lượng đủ mạnh ông không tiêu diệt mà hàng phục Ngô Nhật Khánh ở Đường Lâm Hà Nội, Ngô Xương Xí ở Bình Kiều Thanh Hóa vốn là những hậu duệ nhà Ngô để lấy lòng thiên Chỉ trong vài năm, Đinh Bộ Lĩnh lần lượt đánh thắng 11 sứ quân khác, được xưng tụng là Vạn Thắng Vương. Chiến tranh kết thúc năm 968. Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế. Thắng lợi của Đinh Bộ Lĩnh là thắng lợi của xu hướng thống nhất quốc gia, của tinh thần dân tộc và ý chí độc lập trong nhân dân. Việc vua Đinh Tiên Hoàng khéo kết hợp dùng võ công và biện pháp chiêu hàng các sứ quân để sớm chấm dứt loạn 12 sứ quân là rất kịp thời, vì không lâu sau đó nhà Tống duỗi tới Quảng Châu, diệt nước Nam Hán 971, áp sát biên giới Đại Cồ Việt. Nếu không có sự xuất hiện của Đinh Bộ Lĩnh để thống nhất quốc gia bị chia sẻ tan nát, Việt Nam khó thoát khỏi họa xâm lăng từ phương bắc tái diễn khi nhà Tống hoàn thành việc thống nhất Trung Hoa. Cai trị Mở nước Đại Cồ ViệtĐồng tiền Thái Bình hưng bảo, tiền đầu tiên ở Việt NamNăm Mậu Thìn 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, tự xưng là Đại Thắng Minh Hoàng đế36 , đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, dời Kinh ấp về động Hoa Lư, bắt đầu dựng đô mới, đắp thành đào hào, xây cung điện, đặt triều Tên Đại Cồ Việt 大瞿越. Đại là từ Hán-Việt và có nghĩa “vĩ đại great”; Cồ là một chữ Việt có nghĩa “to lớn, vĩ đại great“; được ký âm bằng một chữ Hán có âm tương Đinh Tiên Hoàng cho xây cung điện, chế triều nghi, định phẩm hàm quan văn, quan võ. Vua phong cho Nguyễn Bặc là Định Quốc công, Đinh Điền là Ngoại giáp, Lê Hoàn làm Thập đạo tướng quân, Lưu Cơ làm Đô hộ phủ sĩ sư, Tăng thống Ngô Chân Lưu được ban hiệu là Khuông Việt đại sư, Trương Ma Ni làm Tăng lục, Đạo sĩ Đặng Huyền Quang được làm Sùng chân uy nghi và phong cho con là Đinh Liễn là Nam Việt vương. Vua lập 5 hoàng hậu là Đan Gia, Trinh Minh, Kiều Quốc, Cồ Quốc và Ca năm Canh Ngọ 970, bắt đầu đặt hiệu năm là Thái Bình. Đinh Tiên Hoàng truyền cho đúc tiền đồng, là tiền tệ xưa nhất ở Việt Nam, gọi là tiền đồng Thái Nhà Đinh là triều đại đầu tiên đặt nền móng cho nền tài chính - tiền tệ của Nhà nước phong kiến Việt Nam. Đồng tiền Thái Bình được đúc bằng đồng, hình tròn, lỗ vuông, có thể xâu thành chuỗi. Mặt phải có đúc bốn chữ "Thái Bình Hưng Bảo", mặt sau có chữ "Đinh". Hầu hết gần 70 triều vua sau đó, triều nào cũng cho đúc tiền của mình bằng chính trị trong nước có phần quá thiên về sử dụng hình phạt nghiêm khắc. Vua muốn dùng uy chế ngự thiên hạ, bèn đặt vạc lớn ở sân triều, nuôi hổ dữ trong cũi, hạ lệnh rằng "Kẻ nào trái phép phải chịu tội bỏ vạc dầu, cho hổ ăn". Mọi người đều sợ phục, không ai dám quân sự, Đinh Tiên Hoàng phân ra đạo, quân, lữ, tốt, ngũ. Mỗi một đạo có 10 quân, 1 quân 10 lữ, 1 lữ 10 tốt, 1 tốt 10 ngũ, 1 ngũ 10 người. Như vậy quân đội nhà Đinh khi đó có 10 đạo, là khoảng 1 triệu người trong khi dân số đất nước khoảng 3 triệu. Vua thực hiện "ngụ binh ư nông", đó là hình thức vũ trang toàn dân, dựa vào nghề nông mà phát triển quân 41 Đóng đô Hoa LưKinh đô nhà Đinh đóng tại Hoa Lư Ninh Bình, thuộc về Trường Châu thời Bắc thuộc lần 3. Dựa vào các khối đá vôi cao dựng đứng ôm lấy vùng đất cao không bị ngập do thủy triều và nước lũ, lại có sông Hoàng Long ở phía bắc, sông Sào Khê chảy xuyên qua kinh thành thuận lợi giao thông. Đinh Tiên Hoàng đã cho đắp những đoạn tường thành nhân tạo nối liền các dãy núi thiên nhiên để tạo thành một đô thành vững chắc bảo vệ cung vua bên trong42 .Việc Đinh Tiên Hoàng chọn Hoa Lư mà không chọn Cổ Loa của nhà Ngô hay Đại La thời Bắc thuộc được nhà nghiên cứu Lê Văn Siêu xem là quyết định khôn ngoan. Với hoàn cảnh đương thời, sau nhiều năm loạn lạc, Hoa Lư là địa điểm chiến lược, nằm ở trung tâm đất nước thời đó, khống chế được cả khu vực sơn cước từ Thanh Hóa đổ ra, sông Đà đổ xuống, thêm địa thế vừa hùng vừa hiểm có thể cầm cự với Trung Hoa, nếu có cuộc xâm lăng của phía này tới43 . Với việc chọn Hoa Lư quê hương làm kinh đô, Đinh Tiên Hoàng có thêm sức mạnh của yếu tố nhân hòa, bởi do thời loạn 12 sứ quân trước đó mà nhân dân các vùng khác có thể còn hoài cổ về sứ quân chiếm địa chất, đồng thời là nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Trần Đức Lương cũng cho rằng tính hiểm yếu của Hoa Lư không chỉ nhờ phần thành lũy, nền điện mà chính bởi hệ thống các thung lũng núi sâu hơn bên trong có thể liên thông với nhau bởi các khe ngách mà ngày nay do nước biển dâng cao đã biến thành những lạch nước ngầm42 .Khi quyết định dời Đại La về Hoa Lư, Đinh Tiên Hoàng không chỉ muốn dựa vào địa thế hiểm yếu của vùng núi Tràng An, tìm sự hậu thuẫn của quê hương, họ tộc mà còn vì muốn thoát khỏi những liên kết, ràng buộc của thể chế Trung Hoa vẫn còn nhiều ảnh hưởng ở trung tâm châu thổ lớn để chuyên tâm chuẩn bị những bước đi mới căn bản cho sự chấn hưng dân tộc, việc trở về xây dựng kinh đô ở Hoa Lư của vua Đinh không phải là sự quay trở lại với Chủ nghĩa địa phương mà chính là nhằm hướng tới một tầm nhìn rộng lớn hơn của Chủ nghĩa dân tộc mạnh Từ năm 968, Hoa Lư trở thành kinh đô đầu tiên của nhà nước phong kiến Trung ương tập quyền ở Việt Nam, tồn tại 42 năm 968 - 1010, gắn với sự nghiệp của ba triều đại liên tiếp là nhà Đinh, nhà Tiền Lê và nhà Lý với các dấu ấn lịch sử thống nhất giang sơn, đánh Tống - dẹp Chiêm và phát tích quá trình định đô Hà Nội. Sau này các triều đại nhà Trần, nhà Tây Sơn đều xây dựng phòng tuyến ở vùng đất này để làm nên những chiến công vang dội. Hiện nay, Khu di tích cố đô Hoa Lư nằm trong quần thể di sản thế giới Tràng An, trở thành một điểm du lịch văn hóa lịch sử nổi tiếng ở Ninh Bình. Xưng Hoàng ĐếNăm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, Đại Việt sử ký toàn thư chép sự kiện "Bầy tôi dâng tôn hiệu là Đại Thắng Minh Hoàng Đế" và "Vua mở nước, lập đô, đổi xưng Hoàng đế".Ở Trung Quốc việc xưng Vương có từ thời thượng cổ đến thế kỷ III trước Công nguyên. Đến thời Tần Thủy Hoàng mới tự xưng là Tần Thủy Hoàng đế. Chữ Hoàng có nghĩa là người thống trị bậc cao nhất, Chữ Đế trước đó chỉ dùng để gọi Trời mà không dùng để gọi Vua. Tần Thủy Hoàng muốn khẳng định mình có uy quyền thống trị toàn bộ thế gian vì đã thôn tính được 6 nước khác thống nhất Trung Hoa qua việc đổi xưng Hoàng Ở Việt Nam, từ thời Hồng Bàng có Kinh Dương Vương và Hùng Vương. Người xưng Đế đầu tiên là Lý Nam Đế nếu công nhận tính chính thống của nhà Triệu thì người xưng Đế đầu tiên ở Việt Nam là Triệu Vũ Đế, tiếp theo là Mai Hoắc Đế. Việc xưng Đế của các vị vua này khẳng định nước Nam cũng có Nam Đế giống với Bắc Đế ở Trung Quốc. Nhưng riêng Lý Nam Đế và Mai Hoắc Đế mới xưng Đế mà chưa xưng Hoàng Đế và chỉ tồn tại một thời gian ngắn, sau đó đất nước chưa thoát khỏi thời Bắc Đinh Tiên Hoàng là người xưng hoàng đế đầu tiên ở Việt xét về Đinh Tiên Hoàng đế, sử gia Lê Văn Hưu cho rằng có lẽ ý Trời vì nước Việt ta mà sinh bậc thánh triết, Lê Tung cho rằng vua chính thống của nước Việt ta, thực bắt đầu từ đấy. Ngoại giaoĐể tránh cuộc đụng độ, năm Nhâm Thân 97247 , Đinh Tiên Hoàng sai con là Đinh Liễn sang cống nhà Tống Trung 975, vua nhà Tống sai sứ sang phong cho Tiên Hoàng làm Giao Chỉ quận vương và phong cho Nam Việt vương Đinh Liễn làm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ An Nam đô Từ đó Đại Cồ Việt giữ lệ sang triều cống phương Bắc. Như vậy bên ngoài vua Đinh bên ngoài thì xưng phiên thuộc nhưng trong nước thì vẫn xưng danh năm Thái Bình thứ 7 [976], thuyền buôn của các nước ngoài đến dâng sản vật của nước họ tại kinh đô Hoa Lư để kết mối giao thương. Cái chếtLăng mộ vua Đinh ở cố đô Hoa LưĐinh Tiên Hoàng có con trưởng là Đinh Liễn, nhưng ông lại lập con út Hạng Lang làm Thái tử. Vì vậy đầu năm Kỷ Mão 979, Đinh Liễn tức giận sai người giết Hạng Lang. Theo chính sử, tháng 11 âm lịch năm đó, một viên quan là Đỗ Thích, mơ thấy sao rơi vào miệng, tưởng là điềm báo được làm vua nên đã giết chết cả Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn. Đinh Tiên Hoàng làm vua được 12 năm, thọ 56 tuổi. Ông được táng ở sơn lăng Trường Yên, kinh đô Hoa đây, một số nhà nghiên cứu lịch sử đưa ra giả thuyết Đỗ Thích không phải là thủ phạm giết vua. Theo nhà giáo Hoàng Đạo Thuý và một số nhà nghiên cứu hiện nay49 , Đỗ Thích không thể làm chuyện này. Thích chỉ là một viên hoạn quan, chức nhỏ, sức mọn, không hề có uy tín hay vây cánh. So với Thích, trong triều có các bạn của vua Đinh như Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Lưu Cơ... đều nắm trọng quyền, đủ cả văn lẫn võ. Vì vậy ông không thể mơ tưởng việc sẽ khuất phục được các đại thần nhà Đinh để ngồi yên trên ngai vàng. Nghi án cung đìnhCũng theo nhóm tác giả này, việc Lê Hoàn làm Phó vương khi Đinh Toàn lên ngôi, cấm cố họ Đinh cùng với việc các trung thần Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Phạm Hạp khởi binh chống Lê Hoàn có thể là những biểu hiện cho thấy mưu đồ thoán đoạt của Lê Hoàn. Ngày nay, số đền thờ các trung thần này rất nhiều so với vài đền thờ Lê Hoàn và thái hậu họ Dương. Các nhà nghiên cứu có đặt giả thiết là hành động của Lê Hoàn có sự trợ giúp của Dương Vân Nga. Trong bối cảnh cung đình của nhà Đinh lúc ấy có 3 hoàng tử, trưởng là Liễn, thứ là Toàn, út là Hạng Lang. Liễn là con trưởng, có nhiều công lao; Hạng Lang lại được vua yêu nên đã lập làm thái tử dù mới lên 4 tuổi, khó có thể bộc lộ những phẩm chất cao siêu hơn Đinh Liễn. Tiên Hoàng lại có những 5 hoàng hậu; có thể đã xảy ra cuộc đua ganh giữa 5 hoàng hậu về tương lai của ngôi thái tử. Trong cuộc đua ganh này, Dương hậu đã chọn Lê Hoàn làm chỗ dựa. Sau sự kiện Đinh Liễn giết Hạng Lang, Đinh Tiên Hoàng không xử phạt Đinh Liễn mà vẫn dự định để Liễn nối nghiệp. Có thể điều này làm phật ý Dương hậu khi bà cho rằng trước đã đặt Hạng Lang trên Liễn thì nay Liễn cũng phải ở dưới Toàn; và Dương Hậu đã cùng Lê Hoàn hành lý giải của một số nhà nghiên cứu, một trong những nguyên nhân khiến nhà Tống phát binh xâm lược Đại Cồ Việt chính là do Đinh Liễn, người đã đi lại với nhà Tống và được chính vua Tống phong chức, bị hại. Việc phong Liễn cho thấy nhà Tống thừa nhận ngôi vị của Liễn. Với danh nghĩa trừng trị kẻ phản nghịch, nhà Tống phát binh. Việc Lê Hoàn thành công trong cuộc kháng chiến chống Tống có thể đã khiến nhân dân tha thứ cho ông. Các nhà nghiên cứu cũng đặt giả thiết Đỗ Thích chỉ là người vô tình có mặt ở hiện trường sau khi cha con vua Đinh bị hại vì là quan nội thị và lúc bấy giờ ông không thể thanh minh mình vô tội lúc nhiều người ập tới. Ông vội vã chạy trốn và bị bắt chém sau 3 ngày, trở thành nạn nhân trong mưu đồ của Lê Hoàn và Dương giả Lê Văn Siêu trong sách "Việt Nam văn minh sử"50 nêu ra giả thiếtTrong cuộc chiến cung đình giữa các hoàng hậu, bà mẹ Hạng Lang đã chọn Nguyễn Bặc làm vây cánh. Khi Hạng Lang bị giết mà thủ phạm Đinh Liễn không bị trừng trị, bà nảy ý định trả hận và đã cùng Nguyễn Bặc dùng Đỗ Thích ra tay. Sau đó Nguyễn Bặc theo lệnh của bà bắt giết Thích để "diệt khẩu".Tuy nhiên, giả thiết này còn có những điểm không thoả đáng. Nguyễn Bặc là bạn "chí cốt" của Tiên Hoàng từ nhỏ. Quan hệ giữa ông và Tiên Hoàng rất gần, quan điểm cho rằng ông nảy ý định phản Tiên Hoàng là hơi gượng ép. Dù ông có bụng "thờ" Hạng Lang chứ không "thờ" Liễn chọn chủ tương lai thì cũng chỉ giết Liễn chứ không thể giết luôn cả Tiên Hoàng. Thứ nữa, nếu Nguyễn Bặc bày đặt sai Đỗ Thích giết cha con vua Đinh thì sau khi Thích hành sự xong, ông phải lập tức "đón lõng" bắt Thích ngay và chém tức khắc, không thể để trốn tránh tới 3 ngày, vì nhỡ trốn tránh lọt vào tay người khác lại khai ra ông, như vậy ông sẽ bị lộ là chủ tác giả Lê Văn Siêu trong sách "Việt Nam văn minh sử" nêu ra một giả thiết khác50 Đỗ Thích là "gian tế" của nhà Tống, giết cha con vua Đinh để làm rối triều đình và cho nhà Tống thừa cơ mang quân sang đánh chiếm. Vì Trung Hoa là nước lớn nên phía Đại Cồ Việt dù có biết, cũng không dám "làm to chuyện" gian tế đó, chỉ dồn sức đánh trả sau thiết này kém thuyết phục nhất. Cha con vua Đinh bị giết tháng 10 năm 979. Lê Hoàn lên thay ngôi nhà Đinh tháng 7 năm 980, hơn nửa năm sau sau khi đã dẹp các trung thần nhà Đinh. Nhà Tống mãi tháng 3 năm 981 mới mang quân sang, tức là gần 1 năm rưỡi sau khi cha con vua Đinh bị hại. Nếu nhà Tống rắp tâm hại cha con vua Đinh để đánh chiếm thì phải sắp sẵn quân, chờ khi được tin "Đã giết được Giao Chỉ quận vương" là vượt biên giới ngay để người Nam bị "sét đánh không kịp bưng tai" thì mới chiếm được. Sự thực là tin vua Đinh bị hại đến khá muộn. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, cha con vua Đinh bị hại từ tháng 10 năm 979, tới tận tháng 6 năm 980, Tri Ung châu nhà Tống là Hầu Nhân Bảo mới dâng biểu lên Tống Thái Tông tâu nên đánh Giao Chỉ và từ tháng 7 năm đó vua Tống mới bắt đầu động binh. Tới khi Lê Hoàn đã lên ngôi tháng 7 năm 980, nghe tin nhà Tống động binh và đưa thư dụ hàng, tới tháng 10 năm đó vẫn thác xưng danh của Đinh Toàn xin nối ngôi vua cha Tiên Hoàng để gửi thư sang vua Tống nhằm hoãn binh. Nhà Tống khi đó vẫn dè dặt dùng "lễ" để chiêu dụ trước. Nếu nhà Tống chủ mưu và chưa muốn dùng binh, ít ra cũng động binh sớm để áp sát biên giới, uy hiếp rồi sai sứ sang doạ để Giao Chỉ quy phục. Sự thực là nhà Tống động binh muộn và ra quân cũng muộn, đủ thời gian cho Lê Hoàn dẹp xong nội loạn, giữ vững nhân tâm và chuẩn bị đón đánh thắng lợi. Lời bànSách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư bản kỉ, quyển 1, có chépTrước kia, khi vua [Đinh Tiên Hoàng] còn hàn vi, thường ra sông Giao Thủy [ở Ninh Bình] để đánh cá. Có lần kéo lưới, bắt được viên ngọc khuê to, nhưng lại lỡ làm va vào mũi thuyền, khiến bị mẻ mất một góc. Đêm ấy, nhà vua vào ngủ nhờ ở chùa Giao Thủy, để viên ngọc ở dưới đáy giỏ cá. Đang khi nhà vua ngủ say, thấy giỏ cá có ánh sáng lạ phát ra, nhà sư của chùa Giao Thủy bèn gọi Nhà vua dậy để hỏi cho ra duyên cớ. Nhà vua cứ tình thực mà kể, lại còn lấy viên ngọc cho nhà sư xem. Xem xong, nhà sư than rằng "Ngày sau, anh sẽ phú quý không biết kể thế nào cho hết, nhưng tiếc là phúc đức không được bền lâu51 ..."Sử thần Ngô Sĩ Liên nói"Đế vương dấy nghiệp không ai không nhờ ở trời. Nhưng thánh nhân không cậy có mệnh trời mà làm hết phận sự của mình. Việc đã thành, lại càng lo nghĩ đề phòng. Sửa sang lễ nhạc hình án chính sự là để phòng giữ lòng người. Đặt nhiều lần cửa, đánh hiệu canh là đề phòng kẻ hung bạo. Bởi vì lòng dục không cùng, việc đời không bến, không thể không đề phòng trước… Cho nên Tiên Hoàng không được trọn đời là do chưa làm hết việc người, không phải mệnh trời không giúp. Cũng vì vua không giữ được trọn đời khiến cho cái thuyết sấm đồ đắc thắng, đời sau không thể không bị mê hoặc vì điều đó." Nhà sử học Lê Văn Hưu nhận xét"Tiên Hoàng nhờ có tài năng sáng suốt hơn người, dũng cảm mưu lược nhất đời, đương lúc nước Việt ta không có chủ, các hùng trưởng cát cứ, một phen cất quân mà mười hai sứ phục hết. Vua mở nước dựng đô, đổi xưng Hoàng Đế, đặt trăm quan, lập sáu quân, chế độ gần đầy đủ, có lẽ ý Trời vì nước Việt ta mà sinh bậc thánh triết..."Nhà sử học Ngô Sĩ Liên nhận xét"Vận trời đất, bí rồi ắt thái, Bắc Nam đều cùng một lẽ ấy. Thời Ngũ đại bên Bắc triều Trung Quốc suy loạn rồi Tống Thái Tổ nổi lên. Ở Nam triều nước ta, 12 sứ quân phân chia quấy nhiễu, rồi Đinh Tiên Hoàng nổi lên. Không phải là ngẫu nhiên mà do vận trời vậy."Nhà sử học Phan Huy Chú trong "Lịch triều hiến chương loại chí" nhận xét"Xét nước ta từ thời Hùng Vương mới bắt đầu thông hiếu với Trung Quốc nhưng danh hiệu còn nhỏ không được dự vào hàng chư hầu triều hội... đến khi Đinh Tiên Hoàng bình định các sứ quân, khôi phục mở mang bờ cõi, bấy giờ điển lễ, sách phong của Trung Quốc mới cho đứng riêng là một nước."Nhà sử học Ngô Thì Sĩ trong "Đại Việt sử ký tiền biên" nhận xét"Tiên Hoàng dấy lên từ một người áo vải, một lần nổi lên dẹp được 12 sứ quân. Rồi dựng nước, dựng kinh đô, đổi niên hiệu, chính ngôi vua. Võ công vang khắp, văn hóa đều đổi mới..." 52 Sử gia Ngô Sỹ Liên trong Đại Việt sử ký toàn thư nhận xét"Vua tài năng sáng suốt hơn người, dũng cảm mưu lược nhất đời, quét sạch các hùng trưởng... song không biết dự phòng, không giữ được trọn đời, tiếc thay! "Lê Tung trong nhận xét trong "Việt giám thông khảo tổng luận""Đinh Tiên Hoàng nhân khi nhà Ngô loạn lạc mất nước, dẹp được Mười hai sứ quân, trời cho người theo, nhất thông bờ cõi, dùng bọn Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lưu Cơ, Trinh Tú làm người phù tá, sáng chế chiều nghi, định lập quân đội, vua chính thống của nước Việt ta thực bắt đầu từ đấy. Kể về mặt dẹp giặc phá định, thì công to lắm; nhưng tông miếuchưa dựng, nhà học chưa xây, đặt vạc, nuôi hổ để làm đồ dùng hình ngục, biếu tê dâng voi, chỉ vất vả về cống dâng; lễ nhạc hình chính không sửa sang, giữ cửa canh đêm không cẩn thận; rốt cùng chính mình bị giết, nước bị nguy, vạ lây đến con, đó là không có mưu phòng giữ từ lúc việc còn bé nhỏ, ngăn ngừa từ khi việc mới chớm ra. "."53 Đinh Tiên Hoàng là người có công đánh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất giang sơn và trở thành hoàng đế đầu tiên của Việt Nam sau 1000 năm Bắc thuộc. Đại Cồ Việt là nhà nước mở đầu cho thời đại độc lập, tự chủ, xây dựng chế độ quân chủ tập quyền ở Việt Đinh Bộ Lĩnh mở nước, lập đô, lấy niên hiệu với tư cách người đứng đầu một vương triều bề thế Thời kỳ phục quốc của Việt Nam, từ họ Khúc chỉ xưng làm Tiết độ sứ, tới Ngô Quyền xưng vương và tới vua Đinh xưng làm hoàng đế. Sau một số vị vua xưng Đế từ trước và giữa thời Bắc thuộc2 rồi bị thất bại trước hoạ ngoại xâm, đến thời nhà Đinh, người cầm quyền Việt Nam mới thực sự vươn tới đỉnh cao ngôi vị và danh hiệu, khẳng định vị thế vững chắc của quốc gia độc lập, thống nhất qua các triều đại Đinh – Lê – Lý – Trần và buộc các điển lễ, sách phong của cường quyền phương Bắc phải công nhận là một nước độc lập. Từ Đinh Bộ Lĩnh trở về sau, các Vua không xưng Vương hay Tiết độ sứ nữa mà đều xưng Hoàng đế như một dòng chính thống. Đinh Tiên Hoàng là vị hoàng đế đặt nền móng sáng lập nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên ở Việt Nam3 4 5 , vì thế mà ông còn được gọi là người mở nền chính thống cho các triều đại phong kiến trong lịch sử. Điểm giống Tần Thủy HoàngCuộc đời và sự nghiệp vua Đinh Tiên Hoàng của Việt Nam, có nhiều điểm giống với Tần Thủy Hoàng của Trung Hoa54 55 Thời gian ở ngôi hoàng đế đều là 12 năm Đinh Tiên Hoàng 968 - 979, Tần Thủy Hoàng 221 - 210 TCN. Danh hiệu Trước khi làm hoàng đế, cả hai đều có vương hiệu Thuỷ Hoàng là Tần Vương, Tiên Hoàng là Vạn Thắng Vương. Sự thăng tiến trong danh hiệu này không chỉ là thăng tiến trong sự nghiệp cá nhân mà còn đều đánh dấu sự thay đổi của lịch sử quốc gia. Từ thời nhà Chu, các vua đứng đầu thiên hạ thiên tử đều chỉ xưng vương, các chư hầu thời Chiến Quốc cũng chỉ xưng vương, từ Tần Thủy Hoàng chính thức xưng hoàng đế là sự thay đổi "nâng bậc" về danh hiệu của vua đứng đầu thiên hạ. Đinh Bộ Lĩnh trong lịch sử Việt Nam cũng tương tự từ khi giành độc lập trở lại thời họ Khúc, những người cầm quyền ban đầu đều chỉ xưng Tiết độ sứ với tư cách "trưởng quan" cai trị một vùng lãnh thổ thuộc về Trung Quốc. Tới nhà Ngô, các vua mới xưng vương và tới Đinh Bộ Lĩnh xưng hoàng đế, cũng là sự thay đổi lớn, tạo dấu ấn trong lịch sử quốc gia như Tần Thủy Hoàng. Đinh Tiên Hoàng xây dựng thành Hoa Lư bằng cách nối lại các dãy núi đá trong tự nhiên bằng tường thành nhân tạo, Tần Thuỷ Hoàng xây dựng Vạn Lý Trường Thành cũng bằng cách nối lại các đoạn thành sẵn có của các nước chư hầu. Cả hai đều lập đô ở những vùng núi non hiểm trở. Đinh Tiên Hoàng Đế và Tần Thủy Hoàng Đế cùng trở thành hoàng đế sau khi tiêu diệt các thế lực cát cứ phân tán dẹp nội chiến để lập nên một đất nước thống nhất, tự chủ, chuyển đổi chế độ phong kiến phân quyền sang chế độ phong kiến tập quyền. Cả Đinh Tiên Hoàng và Tần Thủy Hoàng khi làm vua đều dùng chính sách cai trị bằng pháp luật nghiêm khắc. Đinh Tiên Hoàng và Tần Thủy Hoàng khi mất đều đương quyền hoàng đế, người kế tục sự nghiệp đều là con thứ và sớm để quyền bính rơi vào tay quyền thần. Hai triều đại mà hai hoàng đế sáng lập tuy ngắn ngủi nhưng để lại nhiều dấu ấn trong lịch sử. Tôn vinhHầu hết các thành phố, thị xã ở Việt Nam đều có đường mang tên Đinh Tiên Hoàng. Một số nơi có đường mang tên Đinh Bộ Lĩnh như ở Thành phố Hồ Chí Minh, thị xã La Gi Bình Thuận, Hương Trà Thừa Thiên Huế, thành phố Nam Định, Thủ Dầu Một Bình Dương, Mỹ Tho, thị xã Lai Châu... Một số trường học được đặt tên Đinh Tiên Hoàng. Một số vận động viên thể thao khi gia nhập quốc tịch Việt Nam cũng lấy họ theo vua như Đinh Hoàng La, Đinh Hoàng Max bóng đá, Đinh Hoàng Chai bóng chuyềnTháng 3 năm 2011, chiếc tàu hộ tống mang tên lửa lớp Gepard đầu tiên của Hải quân nhân dân Việt Nam được đặt tên là Đinh Tiên 57 Trong văn học, nghệ thuậtNgoài các tư liệu chính sử, trong văn học Việt Nam có nhiều tác phẩm nổi tiếng viết về Đinh Bộ Lĩnh tiêu biểu như Cờ lau dựng nước, Trận chiến trong thung lũng, Hoàng đế cờ lau, Sử ca Đinh Bộ Lĩnh, truyền thuyết sông Hoàng Long, truyền thuyết con ngựa đá, bóng cờ lau, Giao châu thất hùng... Trong đó có tác phẩm đã được chuyển đổi thành phim nhựa như "Trận chiến trong thung lũng", "Hoàng đế cờ lau" và "Đinh Tiên Hoàng đế". Trong dân gian, Đinh Bộ Lĩnh còn được xưng tụng với những tên gọi anh hùng Vạn Thắng Vương, Đại Thắng Minh Hoàng đế... Hình ảnh Đinh Bộ Lĩnh thời niên thiếu đã đi vào thơ ca tuổi trẻ Việt Nam từ thời tiểu học"Bé thì chăn nghé, chăn trâuTrận bày đã lấy bông lau làm cờLớn lên xây dựng cơ đồMười hai sứ tướng bây giờ đều thua" Đền thờ, tượng đàiCác di tích thờ Vua Đinh Tiên Hoàng rất đa dạng và có ở nhiều vùng miền khác nhau như ở Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam, Thái Bình, Hà Nội, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Phú Thọ, Thanh Hóa, Hòa Bình, Quảng Bình, Đà Nẵng, Đắc Lắc, Hưng Yên, Quảng Nam... Các vị quan trung thần của vua Đinh Tiên Hoàng cũng được thờ ở rất nhiều nơi, qua đó thấy được sự nghiệp và tình cảm đặc biệt mà nhân dân dành cho vị vua Bình hiện còn ít nhất 23 di tích thờ Đinh Tiên Hoàng,58 59 và nhiều nơi phối thờ Vua với các vị thần khác. Các đền thờ Vua đều nằm ở phía bắc tỉnh Ninh Bình trong khi các đền thờ Lê Đại Hành lại nằm ở nửa phía nam của tỉnh này. Các đền, đình tiêu biểu như đền Vua Đinh Tiên Hoàng, đình Yên Trạch, đình Yên Thành, Phủ Đại ở khu di tích cố đô Hoa Lư, xã Trường Yên; đình Trung Trữ xã Ninh Giang, Hoa Lư; Núi Kỳ Lân và đền thờ Đinh Bộ Lĩnh ở xã Gia Phương; đình Viến và đền thung Lau ở động Hoa Lư; đình Kính Chúc và đình Thượng Kính Chúc, xã Gia Phú, huyện Gia Viễn; di tích Đàn Tế Trời ở đồi Thờ, xã Quỳnh Lưu; đền Vua Đinh ở thôn Lão Cầu, xã Văn Phú; các đình Mỹ Hạ, đình Ngọc Nhị, đình Ngọc Ba ở xã Gia Thủy và các đình thôn Lược, đền Bóng, đình Ngọc Mỹ thôn Me, đình Vua làng Xát, đền làng Đông Thịnh ở xã Sơn Lai huyện Nho thể di tích thờ Vua Đinh ở Nam Định gồm có đền vua Đinh ở xã Yên Thắng, đình Thượng Đồng, đền Thượng Thôn, đình Cát Lũy, đình Tân Cầu ở xã Yên Tiến, đình Đằng Động ở xã Yên Hồng Ý Yên; đình Bườn xã Mỹ Thắng, huyện Mỹ Lộc; đình làng việt cổ Bách Cốc, Vụ Bản; đền vua Đinh ở Giao Thủy, Khu tưởng niệm Vua Đinh ở xã Xuân Kiên, Xuân Trường… Hà Nam có đền Lăng ở Thanh Liêm; đình Lạc Nhuế ở xã Đồng Hóa và đền Đặng Xá ở Văn Xá, Kim Bảng; đền Ung Liêm ở Phủ Lý, đình Yến ở xã Thanh Hà… Hà Nội có đền Đinh Tiên Hoàng Đế ở làng Vài, xã Hợp Thanh huyện Mỹ Đức với lễ hội mở hàng năm, đền Bách Linh ở Hòa Nam, Ứng Hòa đúc tượng thờ Vua Đinh cùng bài vị thờ 99 vị thần khác hay đền thờ ở làng Cổ Điển, Tứ Hiệp, Thanh Trì…Xa hơn là Đà Nẵng có đền thờ vua Đinh ở xã Hoà Khương, Hoà Vang; Quảng Nam có tượng Vua Đinh trong nhà thờ Tộc Đinh ở Hạ Nông, Điện Bàn; Lạng Sơn có đình Pác Mòng thờ Vua Đinh Tiên Hoàng ở thôn Quảng Trung xã Quảng Lạc, thành phố Lạng Sơn;60 Thanh Hóa có đền Vua Đinh ở làng Quan Thành, Thọ Tân, Triệu Sơn; Bắc Kạn có đền Phja Đeng thuộc xã Cường Lợi huyện Na Rì thờ Vua Đinh. Hưng Yên có đình Phù Liệt ở xã Thắng Lợi, Văn Giang thờ Vua Đinh và ngũ vị đại vương giúp vua dẹp Thái Bình có miếu Vua Đinh ở xã Song An, Vũ Thư và chùa Kỳ Bá ở thành phố Thái Bình; Vĩnh Phúc có chùa An Hòa, Vĩnh Yên với ngôi tổ đường thờ Vua Đinh Tiên Hoàng; Phú Thọ có đình Nông Trang là nơi thờ Đinh Bộ Lĩnh gắn với sự kiện hưởng ứng của dân địa phương khi vua về đây dẹp 2 sứ quân họ Kiều;62 Người Mường Hòa Bình thờ vua Đinh ở đình Sóc Bai hay đình Xác Bái ở xã Yên Bồng, Lạc Thủy; Đăk Lăk có đình Cao Phong63 ở Hòa Thắng, Buôn Ma Thuột; Quảng Bình có nơi thờ Vua Đinh ở Đồng Hới; Thừa Thiên Huế có miếu Lịch Đại Đế vương thờ Vua Đinh cùng với các vị Vua Hồng Bàng là những vị vua khai sáng... Tượng đài anh hùng Đinh Bộ Lĩnh ở Thành phố Hồ Chí Minh được dựng ở suối Tiên và công viên Tao Đàn. Tại trung tâm thành phố Ninh Bình đã xây dựng khu quảng trường Đinh Tiên Hoàng di sản văn hóa phi vật thể liên quan đến tín ngưỡng thờ cúng Vua Đinh Tiên Hoàng như Tục đánh quân ở làng Yên Thư xã Yên Phương Yên Lạc, Vĩnh Phúc lại có các trò "Mục đồng đánh quân" và "Chợ mục đồng" suy tôn tinh thần thượng võ của Đinh Bộ Lĩnh khi qua đây đánh dẹp sứ quân Nguyễn Khoan ở Vĩnh Mỗ. Tục ném đá ở vùng Cát Ngạn gồm 8 xã ở Thanh Chương, Nghệ An mà trọng tâm là ở Cát Văn của người dân Thanh Chương vào dịp Tết Đoan ngọ hàng năm để tưởng nhớ tinh thần thượng võ của Đinh Bộ Lĩnh thưở nhỏ khi người cha còn làm thứ sử Hoan Các lễ hội cố đô Hoa Lư, lễ hội động Hoa Lư ở Ninh Bình cũng diễn lại tích cờ lau tập trận của Đinh Bộ Lĩnh thuở nhỏ. Trò Xuân Phả ở Thanh Hóa và nghệ thuật hát chèo là những di sản văn hóa khởi nguồn từ thời Vua Đinh Tiên Hoàng trị vì. Đền Vua Đinh, xã Yên Thắng, Ý Yên, Nam Định đền thờ Đinh Bộ Lĩnh ở động Hoa Lư Gia đình Cha Đinh Công Trứ Mẹ họ Đàm Chú Đinh Dự Vợ Theo chính sử có 5 Hoàng hậu Đan Gia Hoàng hậu, Trinh Minh Hoàng hậu, Kiểu Quốc Hoàng hậu, Cồ Quốc Hoàng hậu, Ca Ông Hoàng hậu. Theo dã sử đã thấy 5 Hoàng hậu Họ Hoàng là tên gọi của một Hoàng hậu được hậu thế ghi nhận và tôn vinh ở chùa Bà Ngô, trong quần thể di tích Cố đô Hoa Bà sinh ra thái tử Đinh Hạng Lang, hai người con riêng của Bà với họ Ngô đều được gả cho 2 con của Vua Đinh với người vợ cả là Đinh Liễn và công chúa Phất Kim. Bà là người chịu kết cục bi thảm sau khi con trai Hạng Lang của bà rồi Vua Đinh bị sát hại, con riêng Ngô Nhật Khánh của bà bị bão dìm chết trận. Khi Đinh Toàn lên ngôi thì quyền lực về tay Đại Thắng Minh Hoàng hậu Dương Vân Nga, bà đã phải rời bỏ Hoàng cung về ngôi chùa phía Bắc kinh đô Hoa Lư tu hành. Ngôi chùa đó được người Việt gọi là chùa Bà Ngô. Trinh Thục Hoàng hậu là Đệ nhị cung phi trong Hoàng cung nhà Đinh. Bà là người có nhan sắc, tài nghệ văn chương và tinh thông võ nghệ. Bà được thờ ở đền Thánh Mẫu, xã Đông Sơn, Đông Hưng, Thái Bình. Trong sắc phong ở đền thờ hoàng hậu triều Đinh có ghi "Trinh Thục hoàng hậu" và "Đệ nhị cung phi". Trong số 5 bà hoàng hậu triều Đinh, hoàng hậu thứ 2 có tên là Trinh Minh Hoàng hậu. Rất có khả năng tên của 2 vị này là 1 người Trinh Minh – Trinh Thục. Tương tự như Trường hợp của Bà tổ nghề may Nguyễn Thị Sen thần tích ghi chép là Tứ phi Hoàng hậu, đối chiếu với tên gọi 5 Hoàng hậu tương đương với tên gọi Cồ Quốc. Dương Vân Nga là hoàng hậu của 2 vua Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành trong lịch sử Việt Nam. Bà đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc chuyển giao quyền lực từ nhà Đinh sang nhà Tiền Lê. Người con trai của bà với Đinh Tiên Hoàng tên Đinh Toàn, là vua cuối của nhà Đinh còn người con gái của bà với Lê Đại Hành là Lê Thị Phất Ngân trở thành hoàng hậu của Lý Thái Tổ, mẹ vua Lý Thái Tông sau này. Vì là một người đàn bà quyền lực của nhiều triều đại, sử sách thường gọi bà với cái tên trang trọng là Dương hậu hay Dương thái hậu. Hiện nay, trong các đền thờ, tên đường và các tác phẩm văn học nghệ thuật, người Việt gọi bà là Thái hậu Dương Vân Nga. Theo giai thoại dân gian, Dương Vân Nga là con gái của ông Dương Thế Hiển, quê ở vùng Nho Quan, Ninh Bình. Cái tên Vân Nga là ghép từ Vân Long và Nga My là tên thôn quê cha mẹ bà66 Từ khi Vua Đinh và Thái tử Đinh Hạng Lang con trai của Hoàng hậu Đan Gia bị sát hại, Dương Vân Nga mới thực sự làm chủ Hậu cung với tư cách là mẹ của Vua mới Đinh Toàn. Lê Hoàn sau khi chiến thắng quân Tống lập nên nhà Tiền Lê. Dương Vân Nga trở thành một trong năm Hoàng hậu của Lê Đại Hành. Nguyễn Thị Sen là tứ phi Hoàng hậu của vua Đinh Tiên Hoàng trong lịch sử Việt Nam, Bà được coi là bà tổ nghề may. Bà quê quán ở làng Trạch Xá, xã Hòa Lâm huyện Ứng Hòa, Hà Nội. Theo thần tích đền thờ tổ nghề ở Trạch Xá, Bà tổ của nghề may là Nguyễn Thị Sen, một người con gái xinh đẹp, đảm đang của làng Trạch Xá. Với sự khéo léo và sáng tạo, bà đã giúp các cung nữ phát triển, sáng tạo được nghề may trong cung vua. Sau khi Vua Đinh Tiên Hoàng mất, quyền lực hậu cung rơi vào tay Dương Vân Nga và Lê Hoàn,67 bà đã từ giã hoàng cung cùng với con gái trở về quê hương truyền dạy nghề cho nhân dân trong làng. Khi mất bà được lập đền thờ và tôn làm bà tổ nghề áo dài truyền thống. Dương Nguyệt Nương là Hoàng hậu được thờ ở thôn Đặng Xá, xã Văn Xá, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Bà là người đã sinh ra công chúa Ngọc Nương.. Con Con trai Về các con Vua Đinh Tiên Hoàng, các sử chép thống nhất có 3 con trai Đinh Liễn, Đinh Hạng Lang, Đinh Toàn. Con gái Sử không chép rõ ràng nhưng căn cứ vào các thần tích tại nhiều đền thờ có thể thấy ít nhất vua có 4 con gái là Công chúa Phất Kim được thờ ở đền thờ công chúa Phất Kim khu di tích cố đô Hoa Lư Công chúa Phù Dung được thờ ở đình Phù Sa, xã Viên Sơn thị xã Sơn Tây Hà Nội68 và phủ Phù Dung ở thôn Yên Trạch, cố đô Hoa Lư. Công chúa Minh Châu là vợ của Trần Thăng, em sứ quân Trần Lãm Công chúa Liên Hoa được thờ ở đình Trâm Nhị, Ân Thi, Hưng Yên. Công chúa Ngọc Nương được thờ ở thôn Đặng Xá, Kim Bảng, Hà Nam. Tham khảo An Nam chí lược, soạn giả Lê Tắc; Dịch giảỦy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam; Nhà xuất bản Viện Đại Học Huế 1961 Đại Việt Sử ký Toàn thư; Soạn giả Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên...; Dịch giả Viện sử học Việt Nam; Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993. Việt sử tiêu án, soạn giả Ngô Thì Sỹ, Dịch giả Hội Việt Nam Nghiên cứu Liên Lạc Văn Hóa Á Châu; Nhà xuất bản Văn Sử 1991 Việt Giám Thông Khảo Tổng Luận; soạn giả Lê Việt Nam sử lược; soạn giả Trần Trọng Kim, Bộ giáo dục- Trung tâm học liệu xuất bản. Lịch triều hiến chương loại chí; Soạn giả Phan Huy Chú; dịch giả Viện sử học Việt Nam; Nhà xuất bản giáo dục, năm 2006. Chú thích ^ a ă Nước Văn Lang thời đại Vua Hùng đến nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân trang 27 ^ a ă bao gồm Triệu Vũ Đế, Triệu Văn Đế nếu công nhận tính chính thống của nhà Triệu, Lý Nam Đế, Mai Hắc Đế ^ a ă Nước Việt có nền quan chế độc lập từ khi nào?, Báo Kiến Thức, ngày 15/09/10 ^ a ă Rước lửa thiêng từ cố đô Hoa Lư về Thăng Long, Vũ Văn Đạt, Báo Thông tấn xã Việt Nam, ngày 02/09/2010 ^ a ă Phố Đinh Tiên Hoàng, Cổng thông tin điện tử quận Hoàn Kiếm. ^ a ă 越史略/卷上, 維基文庫, truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2015. ^ a ă 大越史記全書/本紀卷之一, 維基文庫, truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2015. ^ Trần Trọng Kim. Việt Nam sử lược. Nhà xuất bản Thời Đại, năm 2010. Trang 89. ^ 重編國語辭典修訂本, truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2015. ^ 重編國語辭典修訂本, truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2015. ^ 重編國語辭典修訂本, truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2015. ^ Triết Gia Đinh Tiên Hoàng 924 – 979, Trên trang sở Văn hóa Thể thao Du lịch Ninh Bình, ngày ^ Theo các sử cũ như Đại Việt sử ký toàn thư thì cho rằng ông là người động Hoa Lư, nay là xã Gia Hưng, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình, tuy nhiên hiện nay người ta phủ nhận giả thiết này và các địa danh trên rất gần nhau, đều thuộc huyện Gia Viễn, xem bài động Hoa Lư ^ An Nam chí lược, soạn giả Lê Tắc; Dịch giảỦy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam; Nhà xuất bản Viện Đại Học Huế 1961; bản điện tử, trang 97 ^ Việt sử tiêu án, soạn giả Ngô Thì Sỹ, Dịch giả Hội Việt Nam Nghiên cứu Liên Lạc Văn Hóa Á Châu; Nhà xuất bản Văn Sử 1991; bản điện tử, trang 34 ^ Địa danh này hiện thuộc thôn Đàm Xá, Gia Tiến, Gia Viễn. con đường Đinh Bộ Lĩnh chạy trốn từ Gia Phương đến Gia Tiến hiện vẫn được gọi là đường Vua Đinh. Tương truyền, khi người chú đuổi tới bến sông thì gặp người bạn của Đinh Công Trứ cha ruột Đinh Bộ Lĩnh đã quỳ sẵn ở đó và nói với Đinh Dự là đã có rồng chở Bộ Lĩnh sang sông. Ông làm như vậy để tạo "uy" cho Đinh Bộ Lĩnh khiến người chú cũng phải lạy và quay về. Sông đó là sông Hoàng Long hiện giờ ^ Đại Việt Sử ký Toàn thư; Soạn giả Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên...; Dịch giả Viện sử học Việt Nam; Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993; bản điện tử trang 57 ^ Việt Nam sử lược; soạn giả Trần Trọng Kim; Bộ giáo dục trung tâm học liệu xuất bản, bản điện tử, trang 35 ^ Việt sử toàn thư, Phạm Văn Sơn, trang 116 ^ Về thời điểm Đinh Bộ Lĩnh gia nhập với Trần Lãm trước năm 1951 chúng tôi theo những gì chép trong Việt Nam sử lược của soạn giả Trần Trọng Kim ^ Đại Việt Sử ký Toàn thư; Soạn giả Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên...; Dịch giả Viện sử học Việt Nam; Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993; bản điện tử trang 56 ^ Đại Việt Sử ký Toàn thư; Soạn giả Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên...; Dịch giả Viện sử học Việt Nam; Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993; bản điện tử trang 56 ^ Đại Việt Sử ký Toàn thư; Soạn giả Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên...; Dịch giả Viện sử học Việt Nam; Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993; bản điện tử trang 56 ^ con trai của Đinh Tiên Hoàng là Đinh Liễn được trở về Hoa Lư ^ Đại Việt Sử ký Toàn thư; Soạn giả Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên...; Dịch giả Viện sử học Việt Nam; Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993; bản điện tử trang 56 ^ Có sách cho rằng Bình Kiều ở Khoái Châu, Hưng Yên. Phần lớn các tài liệu và ở đền Vua Đinh - Cố đô Hoa Lư có bản đồ chỉ ra Bình Kiều ở Thanh Hóa ^ Việt Nam sử lược; soạn giả Trần Trọng Kim; Bộ giáo dục trung tâm học liệu xuất bản; bản điện tử, trang 34 ^ Việc chú giải các địa điểm là do người đời sau thêm vào, chứ bản thân sách Đại Việt sử ký toàn thư không chú, ở đây là soạn giả Trần Trọng Kim bình chú ^ An Nam chí lược, soạn giả Lê Tắc; Dịch giảỦy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam; Nhà xuất bản Viện Đại Học Huế 1961; bản điện tử, trang 97 ^ Cố đô Hoa Lư, Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, 2008 ^ Nguyễn Danh Phiệt, sách đã dẫn, tr 196 ^ Ngày nay cứ đến 10-3 âm lịch, nhân dân làng Gin lại đánh cá để tế, tưởng nhớ Kiều Công Hãn, trong khi nhân dân An Lá Đều ở Nam Trực, Nam Định lại gói bánh để tế, tưởng nhớ chiến công của Nguyễn Tấn, nên dân gian có câu "làng Gin đánh cá, làng Lá gói bánh" ^ Theo thần tích làng Tiên Xá, nơi có di tích thờ Nguyễn Thủ Tiệp ^ TRONG NỀN VĂN HÓA DÂN GIAN ĐẤT TỔ Nguyễn Hữu Nhàn, Hội Liên Hiệp Văn Học Nghệ thuật Tỉnh Phú Thọ ^ Tầm nhìn chiến lược của Đinh Bộ Lĩnh ^ Sách An Nam chí lược viết vua xưng hiệu Vạn Thắng Vương ^ Đại Việt Sử ký Toàn thư; Soạn giả Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên...; Dịch giả Viện sử học Việt Nam; Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993; bản điện tử trang 59 ^ PHÙNG HƯNG Vị Vua Như Cha Mẹ Kiểu Học Thuyết Mạnh Tử hay Nhà Lãnh đạo Tối cao Kiểu Văn Hóa Úc Đa Đảo; Keith W. Taylor ^ Thái Bình hưng bảo Đồng tiền đầu tiên của Việt Nam, Lê Đình Phụng, Báo Khoa học Đời Sống Online, ngày 27/07/2010 ^ Theo cuốn sách "Cố đô Hoa Lư" Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc của Nguyễn Văn Trò ^ Theo trang 25 cuốn Nước Văn Lang thời đại Vua Hùng đến nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh ^ a ă Nguyễn Việt 2010, Hà Nội thời tiền Thăng Long, Nhà xuất bản Hà Nội, tr 827 ^ Lê Văn Siêu 2006, Việt Nam văn minh sử, Nhà xuất bản Văn học, tr 461 ^ TS. Nguyễn Văn Kim - Khoa Lịch sử, Trường Đại học KHXH&NV. Đại học Quốc gia Hà Nội. Bài VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH LỊCH SỬ ĐÔNG Á THẾ KỶ X trong hội thảo 1000 năm Thăng Long và sự nghiệp của Lê Hoàn. ^ Lã Đăng Bật, Kinh đô Hoa Lư xưa và nay, Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc năm 2009, trang 31 ^ Lã Đăng Bật, Kinh đô Hoa Lư xưa và nay, Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc năm 2009, trang 32 ^ Có nguồn ghi năm Quý Dậu 973 ^ An Nam chí lược- Quyển Đệ nhị. ^ Phan Duy Kha, Lã Duy Lan, Đinh Công Vĩ, Nhìn lại lịch sử, Nhà xuất bản Văn hoá thông tin, 2003. ^ a ă "Việt Nam văn minh sử" - Lê Văn Siêu, Nhà xuất bản VHTT, 2004 ^ Câu chuyện này ứng với sự nghiệp lớn và cái chết sớm của Đinh Tiên Hoàng ^ Ngô Thì Sĩ trong Đại Việt sử ký tiền biên. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, H. 1997, trang 155. ^ [1] Việt giám thông khảo tổng luận; Lê Tung ^ Đinh Tiên Hoàng và Tần Thủy Hoàng - Những trùng hợp kỳ lạ ^ Trùng hợp lạ lùng giữa vua chúa VN và thế giới, Cập nhật 505 PM GMT+7, Thứ tư, 08/05/2013 Bảo tàng lịch sử quốc gia ^ Nga bàn giao Gepard cho Việt Nam ^ Под флагом Вьетнама ^ Xem cuốn Cố đô Hoa Lư Nhà xuất bản VHDT, Nguyễn Đăng Trò trang 124 ^ Những di tích đền thờ Đinh Tiên Hoàng ^ Lễ hội Lạng Sơn- Lễ hội Đình Pác Mòng ^ ình Phù Liệt, một danh thắng lịch sử ^ Lễ hội đình Nông Trang ^ Đỉnh Cao Phong với tín ngưỡng của người Mường xa xứ Số 89/2006 ^ Người Thanh Chương "vượt đất" ^ Thần tích chùa Bà Ngô và một số ý kiến như trong tác phẩm "Dương Vân Nga - Non cao vực thẳm ghi nhận tên bà Ngô phu nhân là Hoàng thị ^ Thái Hậu Dương Vân Nga 952-1000. Cổng thông tin điện tử tỉnh Ninh Bình. [Ngày 15 tháng 8 năm 2013]. ^ Bà tổ của nghề may - Nguyễn Thị Sen ^ Đình Phù Sa, Ban chỉ đạo Quốc gia Kỷ niệm năm Thăng Long, Theo Di tích Hà Tây, Sở Văn hóa thông tin Hà Tây, 1999 ^ [2] Việt Giám Thông Khảo Tổng Luận Xem thêm Nhà Đinh Dương Vân Nga Lê Đại Hành Tướng nhà Đinh Hoa Lư Nguồn Wikipedia Những chi tiết về cuộc đời ấu thơ của Đinh Bộ Lĩnh là một ví dụ tiêu biểu cho việc đan xen giữa huyền thoại và lịch Việt sử ký toàn thư Toàn thư trước nay vẫn được coi là bộ chính sử quan trọng nhất đối với các nhà sử học, văn hóa học,… Tính chính sử của nó được coi như cái mác bảo hành cho những gì ghi chép bên trong. Song do tình trạng thiếu khuyết tư liệu trầm trọng, mà văn bản này đã sưu tập không ít những huyền thoại, thần tích trong dân gian. Điều đó có thể hiểu được trong bối cảnh “văn – sử – triết bất phân”, là nơi chủ thể văn hóa không quan tâm, hoặc không thể phân biệt được ranh giới giữa các lĩnh vực khoa học. Điều nguy hiểm là ở chỗ, trong suốt thế kỷ XX và cho đến tận ngày nay, tư duy huyền thoại ngày càng lấn át tư duy sử học trong đời sống người Việt. Chúng ta đánh đồng huyền thoại và lịch sử. Ở một số trường hợp cụ thể, chúng ta “làm sử” chỉ là kéo dài cách nghĩ của từ vài trăm năm trước. Nói cách khác đó là lối làm sử “hậu phong kiến”. Một ví dụ tiêu biểu cho việc đan xen giữa huyền thoại và lịch sử là chi tiết về cuộc đời ấu thơ của Đinh Bộ Lĩnh. Toàn thư ghi như sau Xưa, cha của vua là Đinh Công Trứ làm nha tướng của Dương Đình Nghệ, được Đình Nghệ giao giữ chức quyền Thứ sử châu Hoan, sau theo về với Ngô Vương, vẫn được giữ chức cũ, rồi mất. Vua mồ côi cha từ bé, mẹ họ Đàm đưa gia thuộc vào ở cạnh đền sơn thần trong động. Vào tuổi nhi đồng, vua thường cùng bọn trẻ con chăn trâu ngoài đồng. Bọn trẻ tự biết kiến thức không bằng vua, cùng nhau suy tôn làm trưởng. Phàm khi chơi đùa, thường bắt bọn chúng chéo tay làm kiệu khiêng và cầm hoa lau đi hai bên để rước như nghi trượng thiên tử. Ngày rỗi, thường kéo nhau đi đánh trẻ con thôn khác, đến đâu bọn trẻ đều sợ phục, hằng ngày rủ nhau đến phục dịch kiếm củi thổi cơm. Bà mẹ thấy vậy mừng lắm, mổ lợn nhà cho chúng ăn. Phụ lão các sách bảo nhau “Đứa bé này khí lượng như thế ắt làm nên sự nghiệp, bọn ta nếu không theo về, ngày sau hối thì đã muộn”. Bèn dẫn con em đến theo, rồi lập làm trưởng ở sách Đào Áo. Người chú của vua giữ sách Bông chống đánh với vua. Bấy giờ, vua còn ít tuổi, thế quân chưa mạnh, phải thua chạy. Khi qua cầu ở Đàm Gia Nương Loan, cầu gãy, vua rơi xuống bùn, người chú toan đâm, bỗng thấy hai con rồng vàng hộ vệ vua, nên sợ mà lui. Vua thu nhặt quân còn sót, quay lại đánh, người chú phải hàng. Từ đấy ai cũng sợ phục, phàm đi đánh đến đâu đều dễ như chẻ tre, gọi là Vạn Thắng Vương1. Đoạn trích trên lâu nay vẫn được coi như một sử liệu nguyên khối và khả tín. Chưa thấy nhà nghiên cứu nào tiến hành giám định sử liệu, hay cao hơn phê phán sử liệu cho trường hợp này. Trong thế kỷ XX, hình tượng chú bé mồ côi, chăn trâu không chỉ dừng lại ở sách sử mà nó đã được chuyển hóa vào đời sống của người Việt hiện đại. Người ta tiếp tục bồi đắp để xây dựng thành một huyền thoại “cờ lau dựng nước”. Những tác phẩm nghệ thuật xuất hiện trong nhiều năm qua khai thác chủ để này là những minh chứng cụ thể. Phải kể đến hai bức tranh dân gian Đông Hồ một bức là hoạt cảnh Đinh Bộ Lĩnh cưỡi trâu có hai trẻ cầm cờ lau hộ giá, một bức là cảnh Đinh Bộ Lĩnh được rồng che chở khi bị ông chú Đinh Dự truy sát. Chúng ta còn biết đến cuốn tiểu thuyết lịch sử “Cờ lau dựng nước” 2001 của nhà văn Ngô Văn Phú2, “Hoàng Đế cờ lau” 2010 của Nguyễn Khắc Triệu3, truyện tranh cho thiếu nhi “Đinh Bộ Lĩnh” 2000 trong bộ tranh truyện lịch sử Việt Nam4, truyện lịch sử “Vạn Thắng Vương Đinh Bộ Lĩnh” 2000 của Lữ Giang5, truyện tranh “Cờ lau tập trận” 1999 trong bộ “Truyện xưa đất Việt” 24 tập của Tạ Chí Đông Hải6… Để giám định tính khả tín của đoạn sử liệu trên, chúng ta ít nhất phải có những sử liệu độc lập soi chiếu. Chúng tôi muốn nhắc đến đoạn sau đây trong sách Tục tư trị thông giám trường biên của Lý Đảo 1115- 1184 ghi “Trước, Dương Đình Nghệ làm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ, sai Nha tướng Đinh Công Trứ nhiếp Hoan châu Thứ sử. Công Trứ chết, con Bộ Lĩnh nối chức ấy. Khi đó, Bộ Lĩnh cùng con là Liễn cùng thống soái ba vạn người đánh phá bọn Xử Bình, đất ấy mới yên, bèn tự lập làm Vạn Thắng Vương, lấy Liễn làm Tĩnh Hải tiết độ sứ.”7 Sách Văn hiến Thông khảo của sử gia Mã Đoan Lâm 1254 – 1324 đời Tống ghi “Trước, Dương Đình Nghệ lấy Nha tướng Đinh Công Trứ giữ chức Hoan châu Thứ sử, và Ngự phiên Đô đốc. Bộ Lĩnh con của Công Trứ vậy. Khi Công Trứ chết, Bộ Lĩnh nối các chức ấy. Đến đây, Bộ Lĩnh cùng con là Liễn đem binh đánh bại bọn Xử Bình, tặc đảng tan vỡ, cảnh nội đều yên, dân ơn đức ấy bèn suy Bộ Lĩnh làm Giao Châu soái, hiệu là Đại Thắng Vương.”8 Sách An Nam chí lược của Lê Trắc ghi “Cuối đời Ngũ Đại, Đình Nghệ đi trấn Giao Châu, lấy Công Trứ quyền Thứ sử Hoan Châu. Trước đây, Ngô Quyền giết Kiều Công Tiễn, cha con Bộ Lĩnh về với Ngô Quyền, Quyền nhân khiến Công Trứ về nhiệm chức cũ. Khi Công Trứ mất, Bộ Lĩnh kế tập chức cha.”9 Điều đáng chú ý là thời gian định bản của các sử liệu trên xuất hiện trước Toàn thư từ hai đến năm thế kỷ10. Nguyễn Danh Phiệt trong “Nhà Đinh dẹp loạn và dựng nước” đã chứng minh rằng không hề có chuyện Đinh Bộ Lĩnh mồ côi cha từ bé. Theo cách tính của Nguyễn Danh Phiệt, Đinh Công Trứ mất khi Đinh Bộ Lĩnh quãng từ 15 đến 20 tuổi11. Vậy, việc “nối cha giữ chức Thứ sử Hoan Châu và Ngự phiên Đô đốc” có thể sẽ xảy ra vào quãng năm 940 đến 944, khi Đinh Bộ Lĩnh từ 15 đến 20 tuổi. Keith Weller Taylor cũng dựa vào sử liệu nhà Tống mà đoán định rằng Đinh Bộ Lĩnh giữ chức Thứ sử Hoan – Ái vào thời Bình Vương Dương Tam Kha ở ngôi12. Trong khi Nguyễn Danh Phiệt phủ nhận việc Đinh Bộ Lĩnh nối chức cha bằng các truyền thuyết và sử liệu dân gian, thì chúng tôi cho rằng, quãng tuổi từ 15 – 20 là quãng tuổi hoàn toàn có thể nhậm chức trong thời xưa theo phép tập ấm. Những thông tin này rất quan trọng. Từ đây, có thể nhận định rằng 1 Đinh Bộ Lĩnh không phải trẻ mồ côi, mà chỉ mất cha quãng thời thanh niên. 2 Đinh Bộ Lĩnh là con của danh gia vọng tộc, con của quan chức cao cấp nhà Ngô. 3 Khi cha mất, ông có khả năng được tập ấm các chức Thứ sử Hoan Châu, Ngự phiên Đô đốc. Như nghiên cứu trước đây, chúng tôi đã lý giải rằng, Đinh Bộ Lĩnh đã bị mất chức mà phải trở về nguyên quán là động Hoa Lư có lẽ vì liên quan đến thế lực Dương Tam Kha. Trở về Hoa Lư, Đinh Bộ Lĩnh hẳn đã vấp phải những mâu thuẫn quyền lực trong nội bộ gia tộc mà câu chuyện hai chú cháu Đinh Dự – Đinh Bộ Lĩnh đánh lẫn nhau là một kiểu trầm tích lịch sử được hóa thạch trong truyền thuyết như Toàn thư đã ghi. Từ cái lõi lịch sử này, dân gian nhiều đời đã xây dựng nhiều huyền thoại khác nhau. Đại Việt sử ký tiền biên còn sưu tầm một huyền thoại ngộ nghĩnh hơn, rằng Đinh Dự muốn giết cháu bởi vì Đinh Bộ Lĩnh đã dám giết lợn nhà để khao đám trẻ chăn trâu14. Đến đây, nhìn lại những ghi chép trong Toàn thư, ta sẽ thấy các chuyện “mồ côi cha từ bé”, “cùng bọn trẻ chăn trâu ngoài đồng”, “cầm hoa lau đi hai bên để rước như nghi trượng thiên tử”, “hai con rồng vàng hộ vệ vua”… đều là những chuyện sáng tác của đời sau, ít nhất là vào thế kỷ XV- thời Lê sơ – sau thời của Đinh Bộ Lĩnh quãng 500 năm. Huyền thoại là những câu chuyện kể huyền hoặc hoang đường, là một thể loại của văn học dân gian, tức nó là một sản phẩm “hư cấu”. Trái lại, lịch sử là một sản phẩm “thực cấu” của quá trình thu thập thông tin, nhận thức, xử lý thông tin và tư duy sử học. Cái LỊCH SỬ TUYỆT ĐỐI là toàn bộ tất cả những gì đã xảy ra trong quá khứ, là cái đích mà nhà sử học muốn hướng đến. Nó là cái đích không tưởng, vì sẽ không bao giờ có thể tri nhận nó một cách tuyệt đối – toàn diện, mà chỉ có thể tiệm cận đến nó một phần nào đó. Tuyệt vọng trước cái bất khả toàn tri ấy, dân gian đã sáng tác ra các huyền thoại để lấp đầy những nhu cầu về sự hiểu biết. Tham vọng trước cái bất khả toàn tri ấy, nhà sử học buộc phải tiến hành các thao tác tư duy trên những mảnh vụn chắp vá của sử liệu. Nhưng trớ trêu thay, có những lịch sử đã trở thành huyền thoại, và cũng có những huyền thoại chưa bao giờ là lịch sử! —————— 1 Chính Hòa thứ mười tám 1697. Đại Việt sử ký toàn thư. Nội các quan bản. Bản khắc in. Bản dịch. 1998. Tập 1. Ngô Đức Thọ dịch chú, Hà Văn Tấn hiệu đính. NXB Khoa học Xã hội. Hà Nội. 2 Ngô Văn Phú. 2001. Cờ lau dựng nước. NXB Kim Đồng. Hà Nội. 3 Nguyễn Khắc Triệu. 2010. Hoàng đế cờ lau. NXB Văn học. Hà Nội. 4 2000. Đinh Bộ Lĩnh. Tranh Tạ Huy Long. Lời Kim Đồng soạn theo “Đại Việt sử ký toàn thư”. NXB Kim Đồng. Hà Nội. 5 Lữ Giang. 2000. Vạn Thắng Vương Đinh Bộ Lĩnh. Văn nghệ Tp Hồ Chí Minh. Tp. HCM. 6 Tạ Chí Đông Hải. 1999. Cờ lau tập trận. NXB Giáo dục. Hà Nội. 7 Nguyên văn “始楊庭藝為静海節度使遣牙將丁公著攝驩州刺史公著死子部領繼之於是部領與其子璉同帥兵三萬人擊破處玶等境内以安遂自立為萬勝王以璉為静海節度使” [Tống Lý Đảo. Tục tư trị thông giám trường biên. Đài Loan thương vụ. Đài Bắc Thị. Dân quốc 72. 8 Nguyên văn “先是楊廷藝以牙將丁公著攝驩州刺史兼禦蕃都督部領即其子也公著死部領繼之至是部領與其子璉率兵擊敗處玶等賊黨潰散境内安堵部民德之乃推部領為交州帥號曰大勝王” [Nguyên Mã Đoan Lâm. Văn hiến thông khảo. Đài Loan thương vụ. Đài Bắc thị. Dân quốc 72. Xem thêm Nguyên Thoát Thoát soạn, Dương Gia Lạc chủ biên. Tống sử. “Trung Quốc học thuật loại biên”. Đỉnh Văn thư cục. Đỉnh Văn Thư cục. Đài Bắc thị. Dân Quốc 69 1980. Phần Liệt truyện. 9 Lê Trắc. 1335. An Nam chí lược. Mạnh Nghị Trần Kinh Hòa dịch 1960, tb 2002. NXB Thuận Hóa- Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây. Huế. 10 Sử liệu này được biên soạn trong nhiều thế kỷ, vết tích sớm và chắc chắn nhất là từ thế kỷ XV tới văn bản cuối là vào năm 1697. 11 Nguyễn Danh Phiệt. 1990. Nhà Đinh dẹp loạn và dựng nước. NXB KHXH. H. 12 K. Taylor. 1983. The Birth of Vietnam. University of California Press. 13 Ngô Thì Sĩ soạn, Ngô Thì Nhậm tu đính. 1800 khắc in. Đại Việt sử ký tiền biên. Bắc Thành học đường tàng bản. Ký hiệu A2/2-7. Lê Văn Bảy, Dương Thị The, Nguyễn Thị Thảo, Phạm Thị Thoa dịch, Lê Duy Chưởng hiệu đính. NXB Đinh bộ lĩnh là người động hoa lư Gia Viễn-Ninh Bình_, con trai của Đinh Công nhỏ, ông sống với mẹ ở quê thường cùng lũ trẻ trong vùng chăn trâu, chơi trò tập trận , khiêng kiệu, lấy bông lau làm này, giữa lúc nhà ngô suy yếu, Đinh Bộ Lĩnh đã cùng với những người thân thiết tổ chức lực lượng, rèn vũ khí , xây dựng căn cứ o Hoa nhà Ngô xụp đổ, cả nước rối loạn ,Đinh Bộ LINh đem quân đi đánh dẹp các xứ quânTick mình nha 4 cuốn sách hay về Đinh Bộ Lĩnh, người lập kỳ công, dẹp loạn sứ quân, giữ bờ cõi và rạng danh nước Tranh Lịch Sử – Đinh Bộ Lĩnh Và Nước Đại Cồ ViệtCác em đã có trong tay những bộ truyện tranh lịch sử, kết quả của cuộc thi Sáng tác truyện tranh lịch sử theo SGK Lịch sử hiện hành do Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam phối hợp với Hội Nhà văn Việt Nam và Hội Khoa học tổ truyện tranh này tái hiện lại lịch sử đất nước từ khi lập quốc cho đến cuối thế kỷ XX. Các sự kiện, địa điểm, cá nhân lịch sử tiêu biểu được thể hiện bằng hình ảnh sinh động, hấp từng câu chuyện, các em sẽ hiểu biết thêm về quá khứ dựng nước và giũ nước của dân tộc trong suốt hàng ngàn năm. Thấm nhuần những giá trị lịch sử do cha ông dày công hun đúc, các em sẽ thấu hiểu những nét văn hóa, phẩm chất và vẻ đẹp của con người Việt Nam. Hơn thế nửa, lòng tự hào về truyền thống quê hương cùng sự tri ân các anh hùng dân tộc chính là hành trang hữu ích giúp các em tiến bước vững vàng trên con đường hội nhập mai vọng những cuốn truyện tranh lịch sử này sẽ bổ ích và để lại ấn tượng tốt đẹp cho các Tiên Hoàng – Vũ Xuân TửuCâu chuyện này xảy ra cách đây nghìn năm có lẻ…Tài liệu thành văn cũng như huyền thoại, giai thoại về Đinh Tiên Hoàng và triều vua Đinh, có rất nhiều; thật giả lẫn lộn, khó phân biệt rạch ròi. Nhưng tiểu thuyết lịch sử là văn học, hư cứu trên cơ sở chính sử, nên đấy là mảnh đất màu mỡ cho ngòi bút tung vật trung tâm số một là Đinh Tiên Hoàng, khi nhỏ tuổi, bản danh Đinh Hoàn, mãi đến khi kết nghĩa với sứ quân Trần Lãm, mới được phong chức Bộ lĩnh. Từ đó mang tên Đinh Bộ lĩnh, nổi danh ngàn dẹp “loạn mười hai sứ quân”, xưng Vạn Thắng Vương, đến khi thống nhất đất nước mới được tôn là Đại Thắng Minh Hoàng đế…Sau khi băng hà, thường được gọi là Đinh Tiên Hoàng đế, không có tên thụy Đinh Tiên Hoàng là một nhân vật lịch sử, tầm cỡ vượt trên thời đại, mà khả năng của tác giả có hạn, nên không tránh khỏi sơ suất, dám mong bạn đọc chỉ nghĩ, đây là cuốn tiểu thuyết văn học, viết về thân phận nhân vật Đinh Tiên Hoàng, nhưng thông qua bức tranh lịch sử xa xưa, để cố gắng nói điều gì đó với thời nay thì may mắn lắm Truyện Lịch Sử Việt Nam – Đinh Bộ LĩnhĐể bước đầu làm quen với lịch sử, cung cấp cho các em một lượng kiến thức cơ bản, đặc biệt là gieo vào các em niềm ham thích tìm tòi, tủ sách Tranh Truyện Lịch Sử Việt Nam chọn cách viết về lịch sử thông qua các câu chuyện về các danh nhân, thể hiện qua những trang sách tranh nhân vật trong bộ truyện tranh lịch sử xuất hiện là một câu chuyện giàu tính văn học, mang hơi hướng dân gian nhẹ nhàng và gần gũi. Lời thoại trong truyện cũng rất đơn giản, không đặt nặng về tư liệu nhưng vẫn luôn tôn trọng tính xác thực của lịch sử, góp phần bồi đắp tình yêu của thiếu nhi với lịch sử, với dân Bộ LĩnhVào lúc Ngô Quyền đánh thắng giòn giã quân Nam Hán trên dòng Bạch Đằng lịch sử năm 938, Đinh Bộ Lĩnh vẫn là cậu bé chăn trâu mải trò cờ lau tập trận. Gần nửa thế kỉ sau, cậu bé ấy đã trở thành một dũng tướng tài ba, dẹp loạn mười hai sứ quân và đường hoàng bước lên ngôi báu. Ông đã kế nghiệp xứng đáng sự nghiệp giữ vững nền độc lập mà Ngô Vương Quyền và bao thế hệ người Việt đã đổ máu xương mới giành lại Hai Sứ Quân Trọn Bộ 2 TậpCuối thời Bắc thuộc lần thứ ba, Ngô Quyền ở Đường Lâm hưng binh rửa hận cho nhạc phụ là Dương Diên Nghệ, giết phản tướng Kiều Công tiễn, thừa thắng nương vào sóng nước Bạch Đằng giang mà phá tan quân Nam Hán, mở ra cho nước ta thời đại tự chủ đầu tiên. Vận nước vừa mới sáng đã lại mờ, Ngô Vương ở ngôi chỉ được 6 năm, để lại đằng sau Vương cả một thời đại hỗn sau, Giao Châu thực sự đại loạn. Khắp nơi giặc cướp nổi lên, cường hào chiêu mộ binh lính mạnh ai người ấy chiếm giữ một vùng. Lớn và mạnh hơn cả có mười hai nhân vật xưng hùng, sử gọi là “mười hai sứ quân”. Loạn mười hai sứ kéo dài đến tận 23 năm mới cáo chung với những trận đại thắng của “Động chúa Hoa Lư là Đinh Bộ Lĩnh”.Đinh Bộ Lĩnh mất cha từ nhỏ, lang thang trong đám mục đồng, lấy rong chơi làm lẽ sống, tại sao lại có được cái chí “khuất phục chúng anh hùng trong thiên hạ”, tại sao lại có được hành vi tráng liệt “phất cờ dựng nước”, một tay mục đồng lại có thể có được cái kho hùng tài thao lược ở trong lòng để mà ra binh dàn trận, tung hoành như ở chỗ không người giữa Mười Hai Sứ có đủ binh tướng cầm cự với nhau lâu đến như vậy được. Một trí óc mục tử, tại sao lại có thể thực hiện được lần đầu tiên trong lịch sử nước ta một “quốc gia” thực sự với những triều nghi triều chính?Mười Hai Sứ Quân Trọn Bộ 2 Tập là tiểu thuyết lịch sử gồm hai tập với 119 hồi. Tác giả lấy văn nghệ thể hiện văn hóa, đem lịch sử dựng thành tiểu thuyết, đưa tích sử vào các sự việc tưởng tượng, bám vào căn bản lịch sử để cho tiểu thuyết không thành hoang đường mị hóa. Như thế thì cái “không có” vẫn chứa đựng “những cái có thật”. ​ Cho đến tận ngày nay, thân thế và cái chết của Đinh Tiên Hoàng, người khai sinh ra một nước Nam độc lập sau nghìn năm Bắc thuộc, vẫn là một điều gây nhiều tranh cãi. Các sử sách để lại đều có những lý giải không thể đơn giản hơn về nguồn gốc và cái chết của Đinh Tiên Hoàng. Đến mức nhiều người không thể tin được một vị Vua văn võ toàn tài, hội đủ mọi phẩm chất Trung, Hiếu, Dũng, Chí, Tín lại được ghi nhận sơ sài đến thế. Các tài liệu lịch sử, kể cả lịch sử Việt Nam và sử Tàu, nói về nguồn gốc của Đinh Bộ Lĩnh có đôi nét khác nhau, cộng thêm với hàng loạt truyền thuyết, những câu chuyện dân gian lưu truyền, kể cả những truyền thuyết hoang đường, làm cho việc xác định nguồn gốc nhân vật gặp không ít khó khăn. Truyền thuyết hoang đường về sự ra đời của một danh nhân lịch sử dân tộc. Trong cuốn "Ngọn cờ lau lịch sử", tác giả Nguyễn Như viết năm 1981 kể rằng, Công Trứ và Đàm Thị sánh duyên đã trên dưới chục năm mà chưa có con. Là người học rộng, tài cao, có tư chất nên Công Trứ được trọng dụng giao chức Thứ sử, cai quản vùng châu Hoan. Sau 6 năm nhậm chức, người vợ Đàm Thị ở quê nhà mới có điều kiện để vào thăm chồng. Vợ chồng gặp nhau mừng mừng, tủi tủi, nào ngờ tai họa lại giáng xuống giữa đêm đó, Sao Băng hung tinh trên trời sa xuống dinh quan Thứ sử. Hào quang của ngôi sao mạnh và tỏa rộng, cùng với nắng nóng ban ngày đã làm khô mọi vật nên đã xảy ra hỏa hoạn cực lớn, làm cho tất cả kho tàng, trại lính và dinh thự của quan Thứ sử đều bị thiêu rụi. Cũng từ ngày đó, quan thứ sử Công Trứ bỗng dưng liền ốm liệt giường, cấm khẩu. Đàm Thị cùng gia nhân và những người tâm phúc lo lắng cho rằng "Đằng nào thì Công Trứ cũng không sống được nữa, bởi không chết vì triều đình trách tội thì cũng chết vì căn bệnh này" nên mọi người liền đưa Công Trứ trở lại cố hương. Về Đại Hữu được một thời gian thì Công Trứ khuất núi theo hầu tiên tổ, cũng là lúc Đàm Thị phát hiện mình đã có thai. Một thời gian sau quan quân triều đình về, truy xét Công Trứ vì tội làm cháy nhà cửa, kho tàng và dinh thự ở Hoan châu nên tuyên phạt "lưu đày biệt tích và tịch thu toàn bộ gia tư, điền thổ. Nhưng Công Trứ không còn, quan triều đình lại hỏi đến con của Công Trứ và phán rằng" Sau này nếu sinh con trai, khi đứa con đó đủ mười tám tuổi sẽ phải chịu tội thay cha ". Vợ chồng Đinh Thúc Dự là em ruột của Đinh Công Trứ lo lắng, bàn bạc quyết bảo vệ cháu nên đã bịa ra câu chuyện rằng Đàm Thị đã bị con rái cá thành tinh hiếp. Nếu có sinh ra con trai thì cũng là" tạp chủng "chứ không phải là con của Công Trứ. Đó cũng chính là cái cớ để Đàm Thị sang nương nhờ bên ngoại là Đàm Gia Trang. Đủ chín tháng mười ngày, đêm rằm tháng ba năm 924, Bộ Lĩnh đã cất tiếng khóc chào đời. Lại có thuyết khác về chuyện con ngựa đá kể rằng Ngày xưa, ở làng Đàm Gia, châu Đại Hoàng, có một người tên Đinh Công Trứ, làm nhà tướng cho vị đầu mục Dương Diên Nghệ, sau trở nên thứ sử đất Hoan Châu. Về già, ông Trứ lui về quê cùng người vợ trẻ là Đàm Thị. Một hôm Đàm Thị đi tắm một mình trong đầm nước gần nhà, để quần áo ở bụi cây trên bờ, toan bước xuống nước bỗng thấy một con rái cá to lớn hiện lên tiến về phía mình. Đàm Thị sợ hãi ngất đi, đến lúc tỉnh dậy thì thấy mình nằm ở trên cỏ, bên cạnh có con rái cá ủ ấp liếm tay bà. Bàng hoàng đứng lên, bà vội mặc quần áo lại về nhà, dấu chồng việc lạ thường đã xảy ra. Cách đó ít lâu, Đàm Thị có thai, ngờ rằng con rái cá kia là Thần Nước hiện ra đi lại với bà. Đến ngày, bà sinh được một đứa con trai khỏe mạnh, khôi ngô khác thường. Vài năm sau, ông Trứ chết đi, cũng không hề biết rằng đứa con kia không phải là dòng máu của ông. Về sau, dân làng đánh bẫy bắt được con rái cá ở suối, giết ăn thịt rồi vứt xương đi. Đàm Thị nhặt xương con rái cá đem về gói lại treo ở bếp. Đứa con trai lớn lên, tỏ ra sức khỏe, thông minh hơn người, giỏi về bơi lặn, có thể ở lâu dưới nước hàng giờ. Đàm Thị đặt tên con là Đinh Bộ Lĩnh. Một ngày nọ có thày địa lý sứ Tàu tìm đến, ông ta đang có ý định tìm long mạch trong vùng đất này để táng cốt cha đem theo, khi tới gần vực song thì nhận thấy có vầng ánh sáng hào quang chiếu đỏ hướng thẳng lên sao Thiên Mã. Thày địa lý không biết lặn nên mới thuê người lặn mò xuống đáy nước xem xét tình hình. Lão thày địa lý này vô cùng dảo hoạt, liền thuê ngay đám trẻ mục đồng nơi sứ a nam. Đinh Bộ Lĩnh nhận lời lặn xuống dưới chỗ vực sâu nước chảy mạnh, thấy một con ngựa đá đang trừng mắt há miệng nhìn mình, cậu hoảng sợ trở lên nói cho thày Tàu hay. Thày Tàu liền bảo Đinh Bộ Lĩnh lấy một nắm cỏ đem xuống nhử vào mồm ngựa đá, thì ngựa há miệng ra nuốt lấy. Khi nghe Đinh Bộ Lĩnh lên kể lại rằng ngựa đã đớp lấy cỏ, thày địa lý không dấu được nỗi vui mừng, kêu lên " Đúng long mạch rồi! Ai mà tang được tro cốt ông cha vào đấy thì sẽ được phát đế vương ". Quả trời không phụ long ta! Rồi lão ngửa cổ lên trời cười rộ. Lập tức quay qua Đinh Bộ Lĩnh rồi trao lại một gói xương bọc trong cỏ, bảo mang xuống cho vào miệng ngựa đá. Đinh Bộ Lĩnh cầm lấy lặn xuống nước, nhét gói xương dưới một khe đá gần đó rồi trở lên bảo với thày Tàu rằng đã đưa cho ngựa đá nuốt rồi. Thày địa lý Tàu tưởng thật mừng rỡ lắm liền thưởng tiền cho Đinh Bộ Lĩnh và hứa hẹn sau này lên làm vua sẽ ban cho nhiều vàng bạc hơn nữa. Đinh Bộ Lĩnh chạy về nhà thuật lại việc này cùng mẹ rồi hỏi cốt cha ở đâu. Đàm Thị lúc bấy giờ mới nói thật cho con hay rằng Đinh Công Trứ chỉ là cha nuôi, và trao gói xương rái cá cho Đinh Bộ Lĩnh. Lĩnh lấy cỏ bọc mớ xương rồi lặn xuống vực đưa cho ngựa đá nuốt đi. Từ đó Đinh Bộ Lĩnh sinh ra can đảm khác thường, các trẻ chăn trâu bò đều nể sợ, bầu lên làm tướng. Lĩnh bày trận giả, sai lũ trẻ bẻ hoa lau làm cờ, chặt tre làm khí giới, rồi mấy đứa làm kiệu cho Lĩnh ngồi đi đánh nhau với trẻ làng khác. Một hôm, Lĩnh hội các trẻ ở ngoài đồng, bắt con trâu của chú sai đi chăn bổ làm thịt để mở tiệc khao quân. Ông chú ở nhà nghe tin vác gậy đi tìm, đến nơi chỉ thấy một chiếc đuôi chôn chặt ở đất, hỏi trâu thì Lĩnh nói trâu đã chui mất xuống đất rồi. Người chú tức giận đuổi đánh, Lĩnh chạy đến khúc suối, bí đường nhảy xuống nước, bỗng có con rồng vàng hiện ra cõng Lĩnh qua sông. Về sau Đinh Bộ Lĩnh dấy lên ở Hoa Lư, dẹp loạn các sứ quân, đánh đâu thắng đó, tự xưng là Vạn Thắng Vương. Lời tiên đoán của thày địa lý Tàu thực hiện Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi làm vua, gọi là Tiên Hoàng, niên hiệu Đại Cồ Việt. Tục truyền rằng thày địa lý Tàu trở sang đến nơi thì đã thấy Đinh Tiên Hoàng dựng xong cơ nghiệp, biết họ Đinh được đất ấy rồi, bèn lập mưu để phản lại, mới xin vào triều, yết kiến " Tâu bệ hạ, ngài được ngôi đại địa, cũng bởi phúc mà trời cho, nhưng có ngựa thì phải có gươm mới tung hoành lâu dài được, vậy ngài nên cho để một thanh gươm trên cổ ngựa mới hay". Rồi dâng lên vua một thanh gươm trần hai lưỡi rất sắc. Đinh Tiên Hoàng tưởng thật mới sai lấy thanh gươm buộc trên cổ ngựa, không ngờ lưỡi gươm theo sức nước cuốn dần dần cắm sâu vào cắt lìa cổ. Ngựa đứt đầu lôi cuốn theo sự sụp đổ của Đinh Tiên Hoàng, chấm dứt triều đại ngắn ngủi của nhà Đinh. Sự thật than thế vua Đinh. Đinh Bộ Lĩnh người động Hoa Lư, châu Đại Hoàng, con Đinh Công Trứ, một nha tướng của Dương Đình nghệ giữ chức Thứ sử Châu Hoan. Đinh Công Trứ mất sớm, Bộ Lĩnh theo mẹ về quê ở, thường đi chơi với kẻ chăn trâu, bắt chúng khoanh tay làm kiệu để ngồi cho chúng rước và lấy bông lau làm cờ bày trận đánh nhau. Lớn lên, nhờ thông minh, có khí phách lại có tài thao lược nên khi Bộ Lĩnh dựng cờ dấy nghĩa mong lập nghiệp lớn, dân làng theo ông rất đông. Nhưng vì bất hòa với chú, Bộ Lĩnh cùng với con là Đinh Liễn sang ở với sứ quân Trần Minh Công ở Bồ Hải Khẩu Kiến Xương, Thái Bình. Thấy Bộ Lĩnh là người khôi ngô, có chí khí, Minh Công trao cho Bộ Lĩnh giữ binh quyền. Khi Trần Minh Công qua đời, Bộ Lĩnh đem quân về giữ Hoa Lư, chiêu mộ hào kiệt, hùng cứ một phương. Năm Tân Hợi 951 đời hậu Ngô vương, Nam Tấn vương cùng Thiên Sách vương đem quân đến đánh nhưng cả hai đều đại bại phải rút quân về. Đến khi nhà Ngô mất, Đinh Bộ Lĩnh dụ hàng được Đỗ Động của Nguyễn Cảnh Thạc. Từ đó, Đinh Bộ Lĩnh đánh đâu được đấy, được tôn là Vạn Thắng vương. Chỉ trong một năm, Đinh Bộ Lĩnh đã bình được các sứ quân, lập thành nghiệp đế. Năm Mậu Thìn 968 Vạn Thắng vương lên ngôi Hoàng đế lấy hiệu là Tiên Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Đinh Tiên Hoàng xây cung điện, chế triều nghi, định phẩm hàm quan văn, quan võ, phong cho Nguyễn Bặc là Đinh Quốc công, Lê Hoàn làm Thập Đạo tướng quân Tổng chỉ huy quân đội và phong cho con là Đinh Liễn là Nam Việt vương. Về ngoại giao, để tránh cuộc đụng độ với nhà Tống năm Nhâm Thân 972, Đinh Tiên Hoàng sai con là Đinh Liễn mang đồ vật sang cống. Vua nhà Tống sai sứ sang phong cho Tiên Hoàng làm Giao Chỉ quận vương và phong cho Nam Việt vương Đinh Liễn làm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ An Nam đô hộ. Từ đó nước ta giữ lệ sang triều cống phương Bắc. Đinh Tiên Hoàng đã dẹp xong loạn sứ quân. Nhưng nhìn chung nhiều nơi vẫn chưa tuân theo luật lệ của triều đình. Bởi vậy để răn đe kẻ phản loạn, Đinh Tiên Hoàng đặt vạc đầu ở trước điện, nuôi hổ báo ở trong vườn, tuyên cáo rằng ai phạm tội thì bỏ vạc dầu hoặc cho hổ báo ăn thịt. Dù chưa phải dùng hình phạt ấy nhưng mọi người sợ oai, phép nước được tuân thủ. Nhưng rồi Đinh Tiên Hoàng phạm sai lầm bỏ trưởng lập ấu, cho con út là Hạng Lang làm Thái tử. Con trưởng là Nam Việt vương Đinh Liễn đã theo Tiên Hoàng đi trận mạc từ thuở hàn vi, không được kế vị, tức giận, sai người giết Hạng Lang đi. Họa loạn gây nên ngay trong hoàng tộc. Năm Kỷ Mão 979 Đinh Tiên Hoàng và Nam Việt vương Đinh Liễn bị tên Đỗ Thích giết chết. Đỗ Thích trước làm lại, đêm nằm mơ thấy sao rơi vào mồm, tưởng là điềm báo được làm Vua bèn định bụng sát hại minh chủ. Một hôm Đỗ Thích thấy vua Đinh say rượu nằm trong cung bè lẻn vào sát hại rồi tìm giết nốt con cả là Đinh Liễn. Triều thần tìm bắt được Đỗ Thích đem xử tội và tôn Vệ vương Đinh Toàn lên làm vua. Đinh Tiên Hoàng làm vua được 12 năm, thọ 56 tuổi.* * *HẾT* * * CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ LUÔN THEO DÕI BÀI VIẾT TỪ THẠCH KIM THỬ​ thạch kim thử đinh bộ lĩnh đinh tiên hoàng

câu chuyện về đinh bộ lĩnh